Những
năm gần đây an ninh Biển Đông nổi lên là một trong những vấn đề mang tính khu
vực và ở chừng mực nào đó còn mang tính toàn cầu. Các nước trong khu vực và
nhiều nước khác ngoài khu vực có lợi ích liên quan, bao gồm một số nước lớn như
Hoa Kỳ, Ấn Độ, một số nước EU, Nga v.v… đã và đang quan tâm đặc biệt đến vấn đề
này.
Vấn đề an ninh, xung đột tại Biển Đông (sau này: vấn đề Biển
Đông) trở nên căng thẳng hơn trong những năm gần đây không thể được giải quyết
nếu thiếu sự cố gắng chung của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là nỗ lực chung của
tất cả các nước có lợi ích liên quan.
1. Việt Nam với Biển Đông những năm
gần đây
Một
trong những nhiệm vụ quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia,
chủ quyền dân tộc, bao gồm cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt
Nam trong những năm gần đây là việc tìm kiếm giải pháp nhằm giải quyết vấn đề
an ninh tại Biển Đông. Hai trong số những ưu tiên hàng đầu trong nhiệm vụ này
của Việt Nam bao gồm tăng cường các biện pháp tổng hợp nhằm bảo vệ chủ quyền
biển đảo tại Biển Đông và đánh giá thực chất sức mạnh của Việt Nam trong cuộc
đấu tranh này.
a)
Tăng cường đấu tranh bảo vệ chủ quyền.
Năm
2013, năm tháng đầu năm 2014, an ninh Biển Đông tiếp tục là vấn đề cấp thiết và
thời sự đối với Việt Nam. Những chủ trương, chính sách và những hành động nhằm
tăng cường kiểm soát thực tế Biển Đông theo tinh thần xây dựng “cường quốc
biển”, một “ý tưởng cải cách” do ông Tập Cận Bình đề xướng của Trung Quốc đối
với vùng biển này tiếp tục làm cho Biển Đông là một trong những vùng biển nóng
nhất tại châu Á- Thái Bình Dương và trên các đại dương khác nói chung. Chúng
đặc biệt nguy hiểm đối với các nước láng giềng có biên giới biển với Trung Quốc
như Việt Nam, Philippin v.v…
Trong
bối cảnh đó, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển
đảo của mình. Một số hoạt động đáng chú ý nhất của Việt Nam liên quan đến cuộc
đấu tranh này bao gồm:
-
Thực thi “Luật Biển”, tăng cường cuộc
đấu tranh pháp lý.
Năm
2012, Việt Nam ban hành “Luật Biển”. Bộ luật biển đầu tiên này của Việt Nam có
hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2013.
Luật Biển Việt Nam là một hoạt động lập pháp quan trọng nhằm
hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan biển, đảo của Việt Nam. Lần đầu tiên Việt Nam có một văn bản luật quy
định đầy đủ chế độ pháp lý các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền và quyền chủ
quyền của Việt Nam theo đúng Công ước Luật Biển năm 1982. Đây là cơ sở pháp lý
quan trọng trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển kinh tế biển, đảo của Việt
Nam. Trong các nội dung của Luật Biển
Việt Nam, nội dung quy định phạm vi các vùng biển Việt Nam thuộc chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia, việc nhấn mạnh và quy định chủ
quyền của nhà nước Việt Nam đối với các quần đảo như Hoàng Sa và Trường Sa là
những nội dung rất quan trọng của Luật Biển Việt Nam mà cả trong nước và quốc
tế đều hết sức quan tâm
Cùng với việc khẳng định chủ trương giải quyết các tranh chấp biển, đảo bằng các biện pháp
hòa bình, Nhà nước Việt Nam đã chuyển một thông điệp quan trọng tới toàn thế
giới: “Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tôn
trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là các điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên, trong đó có Công ước Luật Biển năm 1982, quyết tâm phấn đấu vì
hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của
khu vực và trên thế giới”.
Ngoài việc ban hành và thực thi Luật Biển, Việt Nam còn ban hành
và thực thi một số Nghị định khác nhằm khẳng định chủ quyền đối với Biển Đông. Có ý nghĩa quan trọng là Nghị định số 162/2013/NĐ-CP ban hành
12/11/2013 về xử phạt vi phạm hành chính trên vùng
biển và thềm lục địa của Việt Nam. Theo đó, các nhóm hành vi vi phạm hành chính
được quy định trong Nghị định này bao gồm: Vi phạm các quy định về quản lý vùng
biển, đảo và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; vi phạm
các quy định về hàng hải ngoài vùng nước cảng biển; vi phạm các quy định về bảo
vệ môi trường.
- Gia
tăng sức mạnh quốc phòng
Năm 2013 và đầu năm 2014, sức mạnh của
Hải quân nhân dân Việt Nam được nâng cao đáng kể. Ngày 23-5-2013, tại Hải Phòng, Quân chủng Hải quân đã tổ chức Lễ công bố quyết định thành lập Phòng Tàu
ngầm Hải quân trực thuộc Bộ tham mưu Quân chủng Hải quân.
Lần đầu tiên, Hải quân nhân dân Việt
Nam có một đội tàu ngầm hiện đại. Cùng với 6 tàu ngầm
lớp Kilo 636 là những tàu ngầm thuộc loại tiên tiến hiện nay trên thế giới được
sản xuất tại Nga. Với việc sở hữu đội tàu ngầm, Hải quân Việt Nam đã hoàn toàn
khác về chất so với trước đây, gia tăng sự tự tin của Việt Nam trong cuộc đấu
tranh bảo vệ chủ quyền trên biển. Tuy nhiên, nói chung Việt Nam sẽ không sử dụng vũ lực, mà thông qua đàm
phán, thương lượng để tìm giải pháp thỏa đáng trong cuộc đấu tranh bảo vệc chủ
quyền trong đó có vấn đề Biển Đông.
Hải quân Việt Nam còn được
củng cố thêm sức mạnh bằng việc gia tăng sức mạnh không quân trên biển, trong
đó có việc tiếp nhận thủy
phi cơ DHC-6 số hiệu VNT-777 VIP nhằm trang bị cho lực lượng Không quân Hải quân Việt Nam, do Công ty
Viking, Ca-na-đa sản xuất.
Ngoài ra, lực lượng
chấp pháp trên biển của Việt Nam còn tăng cường sức mạnh bằng các loại tàu mặt
nước khác như 3 tàu cảnh sát
biển mang các số hiệu CSB 8003, CSB 2015, CSB 2016 thuộc Cục Cảnh sát biển…
- Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền thông
tin về biển đảo nhằm tăng cường nhận thức cho người dân Việt Nam.
- Triển lãm trưng bày các bản đồ Việt
Nam có Hoàng Sa và Trường Sa và bản đồ Trung Quốc không có hai quần đảo này
được sưu tập từ các lưu trữ trong nước và từ nhiều nước ngoài.
- Đấu
tranh chống tuyên truyền sai trái xuất phát từ nước ngoài. Việt Nam đã tịch thu
và tiêu hủy gần 500 cuốn sổ tay và lịch bàn in bản đồ Việt Nam nhưng không có
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
- Tổ chức mít tinh, tuần hành và tổ
chức các Tuần lễ Biển và đảo Việt Nam nhằm nâng cao nhận thức về thế mạnh biển
đảo Việt Nam.
-
Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại quốc tế về vấn đề Biển Đông
Việt Nam đã tham dự Hội nghị lần thứ 23
các nước thành viên Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.
Luật Biển Việt Nam được giới thiệu chính thức tại Hội nghị và Việt Nam khẳng
định các quy định của Luật này hoàn toàn phù hợp với các quy định được nêu
trong UNCLOS năm 1982(6).
Trong các cuộc thăm chính thức của các đoàn
cấp cao giữa Việt Nam và một số nước như Vương quốc Thái Lan, Indonesia, Cộng
hòa Singapore, Cộng hòa Pháp, Việt Nam luôn bày tỏ lập trường kiên định của
mình về vấn đề Biển Đông và tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của các nước.
Đối thoại quân sự là một bộ phận quan trọng trong các hoạt động đối ngoại
chung. Năm 2013, Việt Nam đã tiến hành đối thoại quân sự với Hoa Kỳ, Canada, Malaysia, New
Zealand, Brunei, Indonesia, Hải quân
Hoàng gia Anh. Kết quả của các hoạt động này là các nước hiểu rõ lập trường của
Việt Nam và có nhiều cam kết phối hợp hành động và trợ giúp Việt Nam nhằm góp phần duy trì ổn định hoà bình
và bảo đảm an ninh an toàn hàng hải trong khu vực.
Năm 2013 và năm
2014 tiếp tục là thời gian khó khăn đối với Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo
vệ chủ quyền tại Biển Đông. Trong dài hạn Việt Nam tin tưởng có đủ nội lực
trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo tại Biển Đông
b) Sức mạnh thực
sự của Việt Nam tại Biển Đông
Lịch sử Việt Nam từng chứng minh rằng,
trong những lúc đất nước lâm nguy thì sức mạnh đoàn kết dân tộc đã từng là vũ
khí quan trọng nhất để Việt Nam duy trì được chủ quyền của mình. Hiện tại, với
vấn đề Biển Đông, Việt Nam đang trong tình trạng như thế. Việt Nam sẽ thực thi một
cách thông minh nhất sức mạnh tổng hợp quốc gia, trong đó sức mạnh đoàn kết,
nói theo ngôn ngữ hiện đại là sức mạnh hội tụ của Việt Nam trong việc giải
quyết vấn đề Biển Đông. Sức mạnh hội tụ này thể hiện tại 3 tầng nấc:
- Hội tụ dân
tộc Việt Nam (trong và ngoài nước)
Hiện tại, vấn đề Biển Đông là một chất
keo gắn kết tình đoàn kết dân tộc. Hơn bất kỳ vấn đề nào khác, việc đẩy mạnh
mọi lĩnh vực nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo tại Biển Đông đã và đang nhận được
sự đồng tình ủng hộ và thực hiện của tất cả những người Việt Nam yêu nước cả ở
trong nước lẫn ở nước ngoài.
Ở trong nước, mọi chủ trương chính sách
liên quan đến vấn đề Biển Đông đều được tất cả các cấp, các bộ ngành liên quan
hoan nghênh và thực hiện.
Ở Việt Nam hiện nay, công tác nghiên cứu biển và hải đảo
nằm rải rác dưới sự quản lý của 15 Bộ, ngành, trong đó có Bộ Tài nguyên và Môi
trường, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an,… Hiện tại, Tổng
cục Biển và Hải đảo (Bộ TN&MT) đang là cơ quan chủ lực thực hiện “Đề án
tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên, môi trường biển đến năm
2010, tầm nhìn đến năm 2020” (thường được gọi là Đề án 47), được triển khai từ
năm 2006.
Vụ Khoa
học xã hội và Tự nhiên (Bộ KH&CN) cũng là một cơ quan quản lý công tác
nghiên cứu, trong đó có Chương trình “Khoa học công nghệ biển phục vụ phát
triển bền vững kinh tế - xã hội” (KC.09/06-10) – một trong những Chương trình
trọng điểm cấp Nhà nước. Từ năm 2006 đến năm 2010, Chương trình này đã cấp kinh
phí cho 28 đề tài trong đó có những công trình nghiên cứu về pháp lý, chủ
quyền. Kết quả Chương trình thu được trong giai đoạn 2006 – 2010 tương đối khá,
với 201 bài báo khoa học được công bố trên tạp chí trong nước và 32 bài báo ở
tạp chí quốc tế. Có thể nói, đây là một trong những đóng góp quan trọng trong
cuộc đấu tranh bảo vệ biển đảo của Việt Nam.
Như phần trên đã đề cập, tại Việt Nam có rất nhiều hoạt động bao trùm nhiều
lĩnh vực nhằm giải quyết vấn đề Biển Đông.
Tại nước
ngoài, cộng đồng người Việt tại nhiều nước: Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Nga, Canada, Australia v.v… luôn tổ chức nhiều
hoạt động ủng hộ chính sách yêu chuộng hòa bình giải quyết vấn đề Biển Đông
theo nguyên tắc đa phương, không dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực, phản đối
nước ngoài có hành động khiêu khích và xâm phạm chủ quyền biển đảo, đặc biệt là
đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam.
Trước sự
kiện Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương- 981 trong vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam tại Biển Đông, nhân dân trong nước và kiều
bào ngoài nước đã xuống đường biểu tình đòi Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, rút giàn khoan ra khỏi
vùng biển của Việt Nam. Biểu tình của nhân dân trong nước diễn ra tại Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, Việt kiều đã biểu tình tại các nước châu Âu như Đức,
Italia, Séc, Pháp, … tại châu Á như Nhật Bản, Singapore, Thái Lan,…tại châu Mỹ
như Hoa Kỳ, Canada… tại nhiều thành phố nước Australia. Đây là thí dụ điển hình
của sự hội tụ dân tộc trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc Việt
Nam.
- Hội tụ khu vực
Tại khu vực châu Á- Thái Bình Dương
hiện nay, vấn đề an ninh Biển Đông tại Đông Nam Á có mối liên hệ mật thiết với
khu vực Đông Bắc Á. Những chủ trương, giải pháp trong việc giải quyết tranh
chấp tại Biển Đông được Việt Nam đưa ra tại các hội nghị cấp cao và các diễn đàn
khu vực thí dụ như ASEAN+1, ASEAN + 3, Cấp cao Đông Á (EAS), ARF, ADMM+, phần lớn nhận được sự đồng tình ủng hộ của
các nước trong khu vực.
Quan điểm của Việt Nam giải
quyết vấn đề Biển Đông một cách hòa bình, tuân thủ DOC, tuân thủ luật pháp quốc
tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, phù hợp với quan
điểm và lợi ích chung của các nước ASEAN đến nay đã được tất cả các nước ASEAN
đồng tình, ủng hộ.
Trước thềm Hội nghị Cấp cao ASEAN-24 tai Nay Pyi Taw, Myanmar, Hội nghị
Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM), Hội nghị Hội đồng Cộng đồng Chính trị-An ninh
ASEAN (APSC) lần thứ 11 và Hội nghị Hội đồng Điều phối ASEAN (ACC) lần thứ 14,
việc Trung Quốc đã hạ đặt giàn khoan Hải dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế
của Việt Nam, cửa ngõ của ASEAN.đã
bị tất cả các nước ASEAN phản đối. Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao ASEAN đã thông qua Tuyên bố riêng về tình hình hiện nay ở
Biển Đông. Đó là sự thể hiện tình đoàn
kết, nhất trí cao và vai trò chủ động, trách nhiệm của ASEAN đối với hòa bình,
ổn định và an ninh ở Biển Đông nói riêng và của khu vực nói chung; khẳng định
mạnh mẽ các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và của ASEAN.
- Hội tụ quốc tế
Trong vấn đề Biển Đông,
Việt Nam đã nắm bắt xu thế Hòa bình- Hợp tác- Hữu nghị- Phát triển chung trên thế
giới nhằm tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận yêu chuộng hòa bình.
Trên thực tế, Việt Nam đã
và đang nhận được sự nhất trí và sự ủng hộ về quan điểm giải quyết vấn đề an
ninh, tranh chấp lãnh thổ và xung đột tại Biển Đông của nhiều nước, trong đó có
các cường quốc như Hoa Kỳ, Nhật Bản… Sự đồng tình và những hành động ủng hộ
Việt Nam được thể hiện theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc vào vị thế,
quan điểm và chiến lược của từng quốc gia trên.
Với chiến lược toàn cầu,
Hoa Kỳ đã tuyên bố trở lại châu Á- Thái Bình Dương, trong đó Hoa Kỳ đã đẩy mạnh
quan hệ hợp tác với Việt Nam, trong đó có hợp tác quốc phòng.
Giống với Hoa Kỳ, Nga cũng
đang thực hiện chiến lược trở lại châu Á. Việt Nam là nước có quan hệ tốt đẹp
với Liên Xô trước đây và nước Nga ngày nay. Hiện tại các học giả Nga hoàn toàn
ủng hộ lập trường giải quyết vấn đề Biển Đông của Việt Nam. Quan điểm này được
thể hiện rõ nét nhất trong Hội nghị khoa học quốc tế về Biển Đông được tổ chức
tại Matxcơva năm 2013 và Hội nghị khoa học “Quần đảo Hoàng Sa 40 năm qua: Sự leo thang những tranh
chấp lãnh thổ ở Biển Đông và những hậu quả địa chính trị tại khu vực”, được tổ chức tại Saint- Peterburg tháng 1 năm 2014.
Những hành động thực tế mà nước Nga ủng hộ Việt Nam trong vấn đề Biển
Đông là việc cung cấp những trang thiết bị quân sự trong đó có những tàu ngầm
hiện đại, tàu mặt nước.. và việc các công ty năng lượng hàng đầu của Nga tham
gia khai thác các giếng dầu mới tại Biển Đông bất chấp sự phản đối của bên thứ
ba. Các chuyến viếng thăm lẫn nhau thường xuyên của các nhà lãnh đạo cấp cao
hai nước khẳng định ý chí chính trị và lòng tin cùng sự ủng hộ lẫn nhau quan
trọng.
Ấn Độ cũng là cường quốc châu Á có quan
hệ tốt đẹp với Việt Nam. Nước này luôn ủng hộ lập trường của Việt Nam trong vấn
đề Biển Đông. Giống như Nga, các công ty năng lượng Ấn Độ đang cùng với Việt
Nam khai thác một số giếng dầu tại Biển Đông mà không ngại sự phản ứng từ nước
thứ ba. Ấn Độ có quan hệ tốt với Việt Nam trong hợp tác quân sự, giúp đào tạo
các quân nhân vận hành tàu ngầm Kilo v.v…
Quan hệ Nhật Bản –Việt Nam là một trong
những mối quan hệ song phương thuận lợi trong số các mối quan hệ với các nước
châu Á. Vấn đề biển đảo của Nhật Bản có những nét gần giống với vấn đề biển đảo
của Việt Nam. Hai nước cùng gặp rắc rối với nước láng giềng tranh chấp đầy tham
vọng. Nhật Bản và Việt Nam cùng chung quan điểm giải quyết vấn đề biển đảo theo
cơ chế đa phương và dựa trên luật pháp quốc tế chung, đặc biệt là Công ước của
Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
Dư luận Australia cũng hoàn toàn ủng hộ
quan điểm lập trường của Việt Nam và các nước ASEAN trong giải quyết tranh chấp
xung đột tại Biển Đông, không dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực.
Trong bối cảnh quốc tế phức tạp hiện
nay, một số nhà phân tích chính trị quốc tế đã ví tình trạng của Việt Nam trong
vấn đề Biển Đông cũng giống như tình trạng của Ucraina liên quan đến vấn đề
Crưm. Tuy nhiên, nếu phân tích sâu hơn về tình hình này, có thể thấy bề ngoài
có một số điểm tương đồng giữa tình hình tại hai địa điểm trên. Trên thực tế,
và bài học lịch sử của Việt Nam đã chứng minh, Việt Nam đã hiểu rất rõ về lý
thuyết liên kết. Với quan điểm độc lập, tự chủ, tuân thủ nguyên tắc Hòa bình-
Hữu nghị, Hợp tác- Phát triển, Việt Nam đã chủ động không ‘liên kết” thiên
lệch. Một mặt, Việt Nam giữ vững lập trường độc lập tự chủ, mềm mỏng nhưng kiên
quyết trong đối sách với Trung Quốc về tranh chấp biển đảo. Mặt khác, Việt Nam
tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các các nước trong khu vực và các cường quốc
ngoài khu vực có lợi ích liên quan ủng hộ mình nhưng Việt Nam không quá lệ
thuộc thực thi những “điều khoản” họ nêu ra chỉ nhằm đạt mục đích “thắng lợi” trước mắt mà không tính tới hệ
lụy lâu dài.
Dư luận quốc tế phản đối mạnh mẽ việc
Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào
tháng 5 năm 2014. Những quan chức cao cấp thuộc chính phủ Mỹ, Anh, Nhật Bản, Ấn
Độ, Philippin, Singapore… đã lên án hành động “hung hăng”(9), “khiêu
khích”, “hiếu chiến” của Trung Quốc làm “căng thẳng leo thang
tại Biển Đông” và kêu gọi Trung Quốc chấm dứt ngay những hành động này. Các nhà
khoa học và dư luận các nước EU, Nga, Anh, Đức,
Pháp, Italia, Australia, Canada…cũng đã có những tuyên bố và phát biểu
và bài viết ủng hộ lập trường hành động mềm dẻo nhưng kiên quyết của Việt Nam
trong bảo vệ chủ quyền trên biển, phê phán thái độ và hành động bất chấp luật
pháp quốc tế của Trung Quốc. Thậm chí những công dân có lương tri của Trung
Quốc cũng phản đối hành động sai trái này của Trung Quốc. Nhà nghiên cứu Lý
Lệnh Hoa nói rằng, Trung Quốc là
nước đã ký Công ước biển LHQ (UNCLOS 1982), cần phải hành xử theo các điều 74,
83 của Công ước, phải tôn trọng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải
lý của các nước láng giềng.
Có thể nói, sức mạnh thực sự của Việt
Nam trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông khó khăn và phức tạp chính là sức
mạnh hội tụ. Tất cả đều rõ, nếu chỉ dựa vào sức mạnh quân sự, sức mạnh kinh
tế,.. Việt Nam khó có thể đứng vững trước cơn bão khát vọng “làm chủ” nước khác
của các thế lực hiếu chiến diều hâu, trên thực tế đang có sức mạnh vượt trội so
với Việt Nam.
Đối với Việt Nam trong vấn đề Biển Đông
hiện nay, câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đương thời: “Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công”, cho đến nay vẫn còn
nguyên giá trị của nó.
2. Kịch bản “xung đột cường độ thấp” tại Biển Đông và
giải pháp của Việt Nam trong thời gian tới
Những năm gần đây, trên thế giới, tại
Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều kịch bản khác nhau về triển vọng
phát triển của Trung Quốc, về tình hình an ninh, xung đột và tranh chấp tại
Biển Đông với những căn cứ lập luận khác nhau tùy thuộc vào cách tiếp cận và
quan điểm của tác giả.
Để có cách tiếp cận và những giải pháp
ngăn ngừa và quản lý xung đột tại Biển Đông trong tương lai, các nước phải hình
dung được những kịch bản có thể trở thành hiện thực tại đây. Có thể nêu 03 kịch
bản về tình hình an ninh tại Biển Đông:
- Kịch bản tích cực –
một khu vực Biển Đông hòa bình và ổn định trong phát triển khu vực và thế giới. Kịch
bản này của an ninh Biển Đông có trở thành hiện thực hay không sẽ còn liên quan
đến kịch bản thứ 2 và thứ 3 dưới đây về an ninh Biển Đông.
- Kịch bản tiêu
cực-cuộc chiến tranh có nhiều bên tham gia
Đây là kịch bản hoàn toàn không mong
muốn cho an ninh Biển Đông.
Khả năng trở thành hiện thực của kịch
bản này rất nhỏ. Theo Viện sĩ Titarrenko M.L. Kịch bản Trung Quốc mạnh lên một
cách bất thường trong tương lai trung hạn rất ít có khả năng trở thành hiện
thực. Tuy nhiên, không
thể hoàn toàn loại trừ khả năng này.
- Kịch bản “xung đột cường độ thấp”. Kịch
bản này sẽ diễn ra với các điều kiện: a) Trung Quốc phát triển liên tục, ổn
định và ngày càng cao (kinh tế, quân sự, xã hội…), b) Các cường quốc mạnh lên,
c) ASEAN mạnh lên, d) Đã thông qua COC, e) Công ước Luật Biển
của Liên hợp quốc năm 1982 được sửa đổi, trong đó có những điều khoản có lợi
cho những cường quốc biển.
Chúng ta xem xét cụ thể từng điều kiện:
a) Trung Quốc phát triển liên tục, ổn
định và ngày càng cao (kinh tế, quân sự, xã hội,v…) Chúng tôi đồng tình với dự
báo của Viện sĩ Titarenko M.L. như sau: “Một kịch bản hiện thực hơn cả đáp ứng được quyền lợi của các nước
láng giềng trong đó có nước Nga và Việt Nam là sự tăng trưởng kinh tế của Trung
Quốc diễn ra liên tục, ổn định và ngày càng cao trong khi vẫn duy
trì những khuynh hướng hội tụ cơ bản hiện nay trong phát triển nội tại của đất
nước, ưu tiên những cấu phần phát triển cho dù không nhanh lắm nhưng cân đối
hơn, hài hoà hơn mang khuynh hướng xã hội hơn”.
Kịch
bản này được đánh giá là có khả năng diễn ra hơn cả, đáp ứng được mong mỏi của
chính người dân Trung Quốc và của đa phần các quốc gia trên thế giới, trong đó
có Mỹ, Nga, Ấn Độ và Việt Nam...
b) Các cường quốc mạnh lên
Xu hướng phát triển trên của Trung Quốc
cũng là xu hướng chung cho các nước khác trên thế giới, bao gồm Mỹ, Nga, Ấn Độ,
Nhật Bản, v… Đến năm 2020, Mỹ sẽ triển khai 60% lực lượng hải quân của mình tại
Thái Bình Dương(15). Nga, Ấn Độ cũng sẽ tăng cường sự hiện diện về
hải quân tại khu vực này(16).
c) ASEAN mạnh lên
Các nước ASEAN bắt đầu thực thi các
bước phát triển theo hình thức cộng đồng. Một số nước chậm phát triển hơn trước
đây đã bắt nhịp cùng các nước phát triển hơn và tất cả các nước ASEAN đều vươn
lên mạnh mẽ.
d) Đã thông qua COC
Bản Dự thảo COC được các nước ASEAN
thông qua ngày 24/5/2012 tại Phompenh Campuchia(17), sau đó sẽ được
Trung Quốc chấp nhận, thông qua và trở thành quy chuẩn cho các bên tuân thủ
trong chính sách biển của mình.
e) Công ước Luật Biển của Liên hợp quốc
năm 1982 đã tồn tại được 30 năm (đến năm 2012). Hiện tại có dư luận cho rằng,
trong điều kiện và bối cảnh quốc tế mới, một số điều khoản của Công ước này cần
được sửa đổi bổ sung. Một khi có sửa đổi, các cường quốc biển, trong đó có Mỹ,
Trung Quốc sẽ “nỗ lực” tạo ra những điều khoản có lợi cho mình.
Với những điều
kiện trên, tình hình an ninh Biển Đông sẽ diễn ra theo kịch bản dưới đây:
- Trung
Quốc tiếp tục áp dụng những biện pháp đảm bảo an ninh biển truyền thống
và phi truyền thống tại vùng Biển Đông.
An ninh truyền thống là dùng những biện
pháp mang tính quân sự để đảm bảo chủ quyền lãnh thổ của một quốc gia. Với
“Giấc mộng Trung Hoa” do ông Tập Cận Bình đề xướng, trong đó có xây dựng Trung
Quốc thành cường quốc biển hùng mạnh. Trong những năm gần đây Trung Quốc tăng
cường đáng kể lực lượng hải quân nói chung và các đơn vị hải quân tại vùng Biển
Đông nói riêng được nước này coi là một trong những công cụ cơ bản nhất đảm bảo
thắng lợi trong trường hợp có xung đột trong các cuộc chiến tranh hiện đại để
bảo vệ chủ quyền của mình. Toàn bộ châu Á và thế giới cần phải nhận diện rõ sự
xuất hiện của một cường quốc biển hiếu chiến phong cách Trung Hoa.
Về những
biện pháp đảm bảo an ninh biển phi truyền thống của Trung Quốc tại vùng Biển
Đông.
Trung Quốc
chủ động cùng các nước ASEAN dần dần giải quyết vấn đề Biển Đông nơi lịch sử và
hiện tại đã và đang đặt ra nhiều thách thức cho hai đối tác này. Đây là một
hướng đi tích cực mở ra triển vọng giải quyết tranh chấp tại Biển Đông giữa
Trung Quốc và ASEAN. Tuy nhiên không phải tất cả các nước ASAEN liên quan đến
vấn đề Biển Đông đều thống nhất quan điểm trên của Trung Quốc, Philippin và
Việt Nam. Tồn tại sự e ngại nhất định về ý đồ của Trung Quốc trong việc giải
quyết vấn đề Biển Đông. Quan điểm này cho rằng Trung Quốc trong những năm đầu
thế kỷ XXI đã vượt lên là cường quốc biển. Họ đang mở rộng “Hành lang Nam Á” trên bộ và thực hiện “Chiến lược hai đại dương”,
chiến lược “xây dựng cường quốc biển” và “Giấc mộng Trung Hoa” tại Biển Đông.
Ngoài những hành động cụ thể trên,
Trung Quốc còn đưa ra những lập luận không thể nào chấp nhận được. Theo họ, khi họ đánh chiếm các đảo thuộc vùng biển tranh chấp
tại Biển Đông và rộng hơn là cả quần đảo Senkaku thì đó là việc họ thu hồi chủ
quyền, các nước không nên gọi đó là “chiến tranh”. Kiểu chơi chữ này đã từng là
những cái bẫy nguy hiểm trong một số vấn đề quốc tế trước đây mà một số nước,
kể cả trong khu vực Đông Nam Á đã từng vướng phải.
Những hành động mang tính quân sự
của Trung Quốc tại Biển Đông đối với các nước Đông Nam Á, đặc biệt là đối với
Việt Nam và Philippin những năm đầu thập niên thứ hai thế kỷ XXI, cho thấy
Trung Quốc đang xây dựng một kịch bản “làm chủ thực tế tại Biển Đông”.
Trung Quốc tiếp tục áp dụng chính
sách lúc cứng, lúc mềm với từng quốc gia, diễn ra trong từng diễn đàn, từng
tình huống. Điều đó tạo cảm giác không minh bạch về chính sách của Bắc Kinh, và
tạo nên những tiên đoán khác nhau từ các nước liên quan.
Trung Quốc có thể tìm cách chế ngự
các nước láng giềng thông qua sự kết hợp giữa hợp tác và ép buộc. Chính sách
của Trung Quốc là có thể đoán trước và rất nhất quán, nó là sự đan xen giữa
trấn an và mở rộng ảnh hưởng.
Trung Quốc dứt khoát từ chối quốc tế
hóa các tranh chấp tại Biển Đông thông qua các đàm phán đa phương. Bằng cách
giải quyết song phương, Trung Quốc có thể chia rẽ và thuyết phục; các cơ chế đa
phương có thể đặt Trung Quốc trong một vị thế yếu hơn. Mục đích cuối cùng, khi
Trung Quốc mạnh lên họ sẽ dùng biện pháp quân sự để thu hồi Biển Đông bằng
những cuộc “xung đột cường độ thấp”. Kịch bản độc chiếm Biển Đông khoảng 20 năm trở lại đây
sẽ được lặp lại. Trung Quốc đã và sẽ sử dụng một công thức tổng hợp để thực
hiện tham vọng của mình: (i) Tấn công quân sự qui mô nhỏ; (ii) thực hiện đơn
phương thăm dò và khai thác tài nguyên trên vùng tranh chấp; (iii) đe doạ bằng
vũ lực đối với ngư dân hoặc sử dụng sức ép kinh tế đối với các tập đoàn dầu khí
quốc tế nhằm ngăn chặn các đối thủ tiến hành khai thác tài nguyên ở vùng tranh chấp;
(iv) chia rẽ các nước trong khu vực bằng kinh tế và ngoại giao; (v) tuyên
truyền chủ quyền và thái độ cứng rắn của họ đối với vấn đề Biển Đông trên toàn
thế giới để các nước phải e ngại.
Công thức
này của Trung Quốc có mục tiêu hướng vào việc thiết lập chủ quyền của họ đối
với Biển Đông trên thực tế (de facto), mặc dù về mặt pháp lý (de jure) điều
này không biện hộ được.
Vào những ngày đầu tháng 5 năm 2014,
Trung Quốc đơn phương đưa giàn khoan Hải Dương – 981 hạ đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hơn
thế nữa, Trung Quốc còn huy động trên 80 tàu (lúc cao điểm lên đến hơn 100
tàu), trong đó có cả các tàu chiến, với cớ bảo vệ giàn khoan, tạo căng thẳng
tại vùng biển của Việt Nam. Những tàu Trung Quốc đâm thẳng vào tàu kiểm ngư của
Việt Nam, dùng súng bắn nước và vòi rồng phun sang các tàu Việt Nam làm hư hại
một số tàu và gây thương tích cho 9 nhân viên kiểm ngư của Việt Nam. Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: “Đây
là lần đầu tiên Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan vào hạ đặt tại địa điểm
nằm sâu trong Thềm lục địa và vùng Đặc quyền Kinh tế của một nước trong ASEAN,
là sự vi phạm đặc biệt nghiêm trọng Luật pháp Quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc
về Luật Biển 1982 và cũng là sự vi phạm đặc biệt nghiêm trọng Tuyên bố về ứng
xử của các Bên trên Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc là một Bên tham gia ký kết”.
Hành động cực kỳ nguy hiểm này đã và đang đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn
định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông. Hành
động gây chấn động dư luận quốc tế này của Trung
Quốc làm tổn hại quan hệ hai nước Trung- Việt và làm cho tình hình an ninh Biển
Đông khó có thể được giải quyết.
Động thái trên của
Trung Quốc nhằm một số mục tiêu lớn như sau: a) Làm dịu bớt tình hình căng
thẳng tại Trung Quốc thời gian gần đây, b) Buộc Việt Nam đi vào đàm phán thực
chất về phân định vùng cửa biển Vịnh Bắc Bộ; c) Kích động dư luận làm ảnh hưởng đến
chính sách hòa bình, hữu nghị của Việt Nam; d)
Thăm dò phản ứng của dư luận khu vực và quốc tế đối với việc Trung Quốc dần dần
khẳng định quyền kiểm soát thực tế 80% diện tích Biển Đông, e) Là một trong
những bước đi thực tế thử nghiệm thực thi chiến lược “xây dựng cường quốc biển”
và “giấc mộng Trung Hoa” của ông Tập Cận Bình.
- Với các
nước liên quan đến Biển Đông
Các nước ASEAN, đặc biệt là Việt Nam và
Philippin, phải gồng mình mua sắm thêm vũ khí tự vệ khi cần thiết. Đồng thời họ
cũng tích cực tiến hành đấu tranh ngoại giao buộc đối phương thực thi các điều
khoản của DOC, nhất là COC sau khi đã
được thông qua
Một số nước ngoài
khu vực như Mỹ, Nga, Ấn Độ, Australia…tích cực hơn trong các quan hệ với các
nước ASEAN và có những hành động cụ thể “cản trở” Trung Quốc trong việc nước
này thể hiện những hành động “quá mức cho phép” tại Biển Đông.
Các nước cần một quy tắc ứng xử
"Biển Đông" mới bao gồm: a) Tất cả các bên tham gia theo phương thức
đa phương; b) Quy định về quy tắc tranh chấp lãnh thổ, lẫn quyền lưu thông trên
biển; c) Giải quyết xung đột trên phương thức hòa bình và d) Mang tính pháp lý
ràng buộc, đang là một giải pháp tiệm cận gần nhất với lợi ích của từng nước.
Đây là kịch bản có nhiều khả năng
trở thành hiện thực nhất.
Vì những lý do trên, những gợi ý, đề
xuất cho những giải pháp giải quyết vấn đề Biển Đông đối với cả khu vực nói
chung và đối với từng nước đặc biệt là đối với Việt Nam nói riêng, nên tập
trung theo kịch bản này.
Có rất nhiều gợi ý đề xuất của các
nhà khoa học, trong đó có các nhà khoa học Nga nhằm giúp Việt
Nam có những giải pháp giải quyết vấn đề xung đột và tranh chấp tại Biển Đông.
Việt Nam sẽ tham khảo những đề xuất
giải pháp giải quyết vấn đề Biển Đông theo kịch bản “xung đột cường độ thấp” trong tương
lai của các Bộ ngành, các nhà chính trị, các chuyên gia, nhà khoa học trong
nước và nước ngoài, trong đó có các nhà chính trị và khoa học Nga.
Về nguyên tắc: Việt Nam luôn theo đuổi
giải pháp hòa bình trong vấn đề Biển Đông, tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt
là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, tuân
thủ DOC, xây dựng và tuân thủ COC.
Về giải pháp cụ thể. Góp
phần làm phong phú thêm những gợi ý đã từng được công bố, bài này xin đề xuất
thêm một giải pháp mới, cụ thể khác trong giải quyết vấn đề an ninh Biển Đông
của Việt Nam liên quan đến Nga, Việt Nam. Đó là đề xuất, xây dựng và thực hiện
tam giác Nga-Ấn- Việt.
Nga và Ấn Độ có lợi ích thiết thực tại Biển
Đông. Trong lịch sử và hiện nay quan hệ song phương Nga - Việt Nam, Ấn Độ -
Việt Nam đều tốt đẹp, có rất ít những khó khăn, cản trở. Quan hệ Nga- Ấn Độ
cũng tốt đẹp.
Sự hợp tác năng lượng, quân
sự Nga- Ấn Độ- Việt Nam trong những năm gần đây phát triển mạnh mẽ và có những
kết quả tích cực.
Trong tương lai, mối quan
hệ này có nhiều cơ sở để phát triển tốt hơn. Trước hết, cả 3 nước đều tuyên bố
và trên thực tế, đang theo đuổi chính sách ngoại giao và đối ngoại hòa bình.
Trong lịch sử cũng như hiện nay, giữa ba nước không tồn tại những vấn đề mang
tính lịch sử. Mối quan hệ ba nước hoàn toàn không vụ lợi, không ảnh hưởng đến
nước thứ ba, nhất là các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Về mối quan hệ không vụ
lợi, Tổng thống Nga V. Putin từng viết: “Song có một điều còn mãi không bao giờ
thay đổi - đó là quan hệ tôn trọng lẫn nhau, là truyền thống tin cậy và giúp đỡ
lẫn nhau, là biết trân trọng sự giúp đỡ vô tư không hề vụ lợi của các đối tác
không khi nào phản bội”.
So với một số “tam giác” khác
liên quan đến khu vực này như một số tài liệu khoa học đề cập ví dụ
như:Nga-Trung- Việt, Nga-Trung- Ấn, Nhật Bản- Hàn Quốc- Trung Quốc, v.v…thì khả
năng hiện thực và hiệu quả thực chất trong phát triển tam giác Nga- Ấn- Việt có
triển vọng hơn. Nếu điều đó trở thành hiện thực Việt Nam sẽ nhận được sự hỗ trợ
tốt hơn trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông
Kết luận
Hiện tại, đối với Việt Nam
giải quyết vấn đề Biển Đông đang là một trong những nhiệm vụ cấp bách thời sự
và rất khó khăn phức tạp. Năm 2013, 2014, tiếp tục là thời gian mà Việt Nam
phải đối mặt với những sức ép từ bên ngoài liên quan đến chủ quyền biển đảo tại
Biển Đông, đặc biệt là vụ Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải dương -981
tại vùng biển nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Việt Nam đã và đang áp dụng
nhiều giải pháp mang tính tổng hợp và trước mắt nhằm giải quyết những khó khăn
hiện tại.
Trong thời gian trung và dài hạn một kịch bản mang tính hiện
thực nhất đối với an ninh Biển Đông đó là “xung đột cường độ thấp”.
Trong
bối cảnh đó, để giải quyết vấn đề Biển Đông, Việt Nam phải có chiến lược lâu
dài, một giải pháp mang tính tổng hợp. Việc đề xuất và thực thi tốt mối quan hệ
tam giác Nga - Ấn- Việt sẽ là một gợi ý góp thêm sức mạnh cho giải pháp tổng
thể trên.
Trên thực tế, Việt Nam có
đủ sức mạnh nội lực để thực hiện cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền dân tộc trên
đất liền cũng như chủ quyền biển đảo tại Biển Đông. Đó là sức mạnh đoàn kết,
hội tụ trong nước và quốc tế của một dân
tộc vốn có truyền thống đoàn kết lâu đời đã được minh chứng bởi lịch sử chống
ngoại xâm trong nhiều thế kỷ qua. Một khi tất cả những người dân có cùng dòng
máu Lạc Hồng cùng đồng lòng nhất trí và được sự ủng hộ vô tư của những người
yêu chuộng hòa bình ở bên ngoài thì không một kẻ thù nào có thể khuất phục được
dân tộc Việt Nam.
TS. Đỗ Minh Cao
Trung tâm Nghiên cứu Biển Đông