TRANG CHỦ
TỪ ĐIỂN
TRA CỨU THƯ VIỆN
SƠ ĐỒ TRANG WEB
LIÊN HỆ
NGÔN NGỮ
 
 
Thu viện ảnh
 Thời tiết Minimize | Maximize
 Hà nội  ° 
 Hải phòng  ° 
 Đà nẵng  ° 
 Hồ chí minh  ° 
Truy cập : 9836290
 
DIỄN ĐÀN TRAO ĐỔI
Cả thế giới bác bỏ cái gọi là "đường lưỡi bò" của Trung Quốc

Tầng nghĩa phi lý đầu tiên: “đường lưỡi bò” là đường quy thuộc đảo”

Theo tác giả cuốn sách, Trung Quốc có “quyền sở hữu tất cả các đảo ở Biển Đông bên trong “đường lưỡi bò”. Mặc dù vậy, những bằng chứng chứng minh chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo này đều hoàn toàn vô lý, bởi:

Thứ nhất, theo lập luận của hai học giả trên, Trung Quốc là quốc gia đầu tiên “phát hiện và chiếm hữu các đảo”, do vậy xác lập chủ quyền đối với các đảo này. Nhưng trên thực tế, những bản đồ còn lưu trữ của các triều đại Trung Quốc như Đại Thanh nhất thống dư đồ (1761), Hoàng Triều nhất thống địa dư toàn đồ (1894), Trung Quốc địa lý học giáo khoa thư (1906),… đều ghi rõ cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam. Điều này cho thấy, ít nhất là đến hết thời nhà Thanh, Trung Quốc chưa xác lập chủ quyền với Biển Đông.

Thứ hai, tác giả cuốn sách còn trơ tráo khẳng định “suốt mấy nghìn năm nay, Trung Quốc đã thực thi một cách liên tục và nhất quán việc quản lý tại các vùng biển có liên quan ở Biển Đông và các đảo trong đó”.Mặc dù vậy, cái gọi là “quản lý suốt mấy nghìn năm” mà hai học giả này viện dẫn đến thực chất chỉ là những hoạt động đánh bắt cá nhỏ lẻ của ngư dân Trung Quốc chứ hoàn toàn không phải là những hoạt động thể hiện chủ quyền nhà nước đối với vùng biển.

Thứ ba, giả sử rằng, “đường lưỡi bò” dùng để xác định các đảo mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền thì không có nghĩa là Trung Quốc có “chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước lân cận, đáy biển và thềm lục địa của các đảo này” như hai học giả trên ngang ngược khẳng định.

Trung Quốc chỉ có thể yêu sách như vậy dựa trên giả thiết các thực thể trong “đường lưỡi bò” là các đảo có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo điều 121 của UNCLOS. Trên thực tế, Trung Quốc chưa từng giải thích về việc cấu tạo nào là đảo, đá, bãi nửa nổi nửa chìm theo UNCLOS.

Và giả sử các cấu tạo này có được công nhận là đảo đi chẳng nữa thì một số nét trong đưỡng lưỡi bò của Trung Quốc cũng nằm quá sát lãnh thổ của các quốc gia ven biển như Việt Nam, Philippines, Malaysia và vượt quá phạm vi 200 hải lý của bất kỳ thực thể nào bên trong “đường lưỡi bò” như báo cáo gần đây của Bộ Ngoại giao Mỹ đã khảo sát.(Xem biểu đồ dưới).



Biểu đồ 1: Khoảng cách giữa các nét của “đường lưỡi bò”

và các thực thể đất liền(1)

Cuối cùng, những tấm bản từ năm 1914 mà hai học giả trên cho rằng đã “thể hiện chủ quyền của Trung Quốc” chỉ do cá nhân vẽ, nội dung của tấm bản đồ này cũng hoàn toàn khác với tấm bản đồ hiện nay. Hơn nữa, trong lịch sử không tồn tại bất kỳ một tấm bản đồ thể hiện chủ quyền nào vô lý đến nỗi không có tọa độ địa lý như tấm bản đồ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc.

Tầng nghĩa phi lý thứ hai: “Trung Quốc có quyền lịch sử đối với vùng nước bên trong “đường lưỡi bò”

Theo tác giả cuốn sách, “đường lưỡi bò” đại diện cho “quyền lịch sử của Trung Quốc đối với hoạt động ngư nghiệp, hàng hải, khai thác dầu khí và các hoạt động khác trong vùng nước, thềm lục địa bên trong”. Đây là cách cố tình lý giải sai Công ước Luật biển, bởi nhiều lý do:

Thứ nhất, khái niệm “quyền lịch sử” không được đề cập trong Công ước Luật biển mà chỉ được nhắc đến vài lần trong yêu sách của các quốc gia trước Tòa với ý nghĩa là một quyền chủ quyền và chỉ giới hạn trong quyền đánh bắt cá. Hơn nữa, thực tiễn các án lệ cho thấy, yêu sách này chưa từng được Tòa chính thức công nhận.

Do vậy, việc viện dẫn “quyền lịch sử” để đòi hỏi quyền đánh bắt cá trong phạm vi “đường lưỡi bò” đã là thiếu cơ sở pháp lý chứ chưa nói đến yêu sách quyền đối với tất cả các loại tài nguyên khác trong một vùng biển rộng lớn chiếm đến hơn 80% diện tích Biển Đông như “đường lưỡi bò”.

Thứ hai, giả sử nếu “quyền lịch sử” với “đường lưỡi bò” có tồn tại thì cũng phải thỏa mãn các điều kiện như đối với vùng nước lịch sử, đó là sự thực thi chủ quyền liên tục, hòa bình trong một thời gian dài và được sự thừa nhận của các quốc gia liên quan.

Xét điều kiện đầu tiên, những lập luận trên đã bác bỏ hoàn toàn cái gọi là “thực thi chủ quyền hiệu quả và liên tục” của Trung Quốc. Bên cạnh đó, việc sử dụng vũ lực xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và một số đảo trong quần đảo Trường Sa năm1988 đã vi phạm trắng trợn luật quốc tế về việc nghiêm cấm chiếm hữu lãnh thổ bằng vũ lực. Do vậy, việc kiểm soát các quần đảo này của Trung Quốc bị Luật quốc tế vô hiệu.

Xét điều kiện thứ hai, tác giả cuốn sách lập luận rằng, đến trước năm 2009, các nước chưa từng phản đối “đường lưỡi bò”.Tuy vậy, trước thời điểm này, Trung Quốc chưa từng công khai bản đồ “đường lưỡi bò” với thế giới.Và, đối với một tấm bản đồ không được công khai thì các quốc gia khác không cần phản ứng lại; Trung Quốc cũng không thể bao biện sự im lặng đó là “thừa nhận” hay “ngầm thừa nhận”.

Tầng nghĩa phi lý thứ ba: “Đường lưỡi bò” là đường phân định ranh giới biển của Trung Quốc

Hồi tháng 7 vừa qua, Trung Quốc đã ngang ngược cho phát hành bản đồ địa lý khổ dọc.Theo đó, “đường lưỡi bò” được ký hiệu bằng biểu tượng biên giới đất liền của Trung Quốc.Cách lý giải này gặp phải sự phản đối của không chỉ Việt Nam mà còn rất nhiều nước khác trên thế giới.

Cách đây vài ngày, Bộ Ngoại giao Mỹchính thức công bố “Báo cáo Các giới hạn trên biển về Yêu sách Biển Đông của Trung Quốc”.Theo đó, Mỹ phản đối kịch liệt cái gọi là “đường phân định ranh giới biển” của “đường lưỡi bò”. Báo cáo chỉ ra rằng:

Thứ nhất, cách lý giải này đi ngược lại với luật pháp quốc tế bởi một quốc gia không thể đơn phương thiết lập ranh giới trên biển với một quốc gia khác. Và giả sử Trung Quốc có chủ quyền với các đảo đang có tranh chấp, thì các ranh giới trên biển cũng phải được đàm phán giữa Trung Quốc và các nước có bờ biển đối diện chứ không phải là một “đường lưỡi bò” mà Trung Quốc đơn phương “vẽ” ra.

Thứ hai, các đoạn trong “đường lưỡi bò” hiện nay cũng thiếu các chuẩn quan trọng của ranh giới trên biển như Trung Quốc không hề công khai danh sách tọa độ địa lý và đường phân chia vùng biển không được phép là nét đứt.

Thứ ba, ở mức độ mà “đường lưỡi bò” thể hiện ranh giới trên biển thì quan điểm đó cũng đi ngược lại với thực tiễn quốc gia và trái với luật pháp quốc tế về ranh giới phân định biển.

Cuối cùng, “đường lưỡi bò” cũng không thể đại diện ranh giới chủ quyền hay ranh giới vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc bởi các đoạn này không những nằm ngoài ranh giới tối đa 12 hải lý của lãnh hải mà còn có đoạn nằm ngoài phạm vi 200 hải lý của bất kỳ thực thể nào mà Trung Quốc yêu sách ở Biển Đông.

Nói tóm lại, tất cả những lập luận mà học giả Trung Quốc đưa ra nhằm bao biện cho “đường lưỡi bò” đều hết sức phi lý và vô căn cứ. Những bao biện này đều thể hiện tham vọng của Trung Quốc muốn “độc chiếm” toàn bộ nguồn tài nguyên trong vùng biển rộng lớn cũng như nắm giữ những vị trí địa chiến lược quan trọng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

TS. Nguyễn Thị Lan Anh




Các tin khác

Sự hình thành cục diện địa chính trị mới tại Đông Á và vai trò của nước Nga
Quân sự hóa các đảo - Mưu đồ và hành động của Trung Quốc ở Biển Đông
"Một vành đai một con đường" - Nấc thang mới trong cạnh tranh chiến lược Trung Mỹ
Trung Quốc và Việt Nam phát huy ưu thế của hệ thống chính trị trong phòng chống COVID-19
Việt Nam đón làn sóng dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc ra sao
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam
Thúc đẩy giao lưu nhân dân giữa Việt Nam và Trung Quốc
Khai mạc Diễn đàn nhân dân Việt - Trung lần thứ 12
 
TIN MỚI NHẤT
ẤN PHẨM - XUẤT BẢN
 
 
TRANG CHỦ
TỪ ĐIỂN
TRA CỨU THƯ VIỆN
SƠ ĐỒ TRANG WEB
LIÊN HỆ
 
 
BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN NGHIÊN CỨU TRUNG QUỐC - INSTITUTE OF CHINESE STUDIES
Địa chỉ: Số 176 Thái Hà, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
Điện thoại: 024.32171020; Email: vnics@vnics.org.vn