Khi dịch thì vấn đề trước tiên gặp phải là người dịch cần hiểu
chính xác nguyên văn và chuyển đạt chính xác sang văn dịch như thế
nào. Vì thế người dịch phải thông hiểu cả hai thứ ngôn ngữ văn tự mới
gọi là có đủ điều kiện cơ bản để dịch. Còn nếu muốn cho tác phẩm
dịch đạt được mức lý tưởng là “tín,
đạt, nhã” thì phải hiểu thấu triệt mối quan hệ mật thiết giữa ngôn
ngữ văn tự nguyên văn và văn hóa rồi biểu đạt sát sao xác đáng sang
văn dịch. Dịch sang Trung văn một tác phẩm nổi tiếng với nghệ thuật
ngôn ngữ tinh thâm, lại có ngàn vạn mối liên hệ với văn hóa Trung
Quốc như Truyện Kiều thì
không nghi ngờ gì nữa, yêu cầu
đối với người dịch càng cao hơn.
1. Thông hiểu hai loại
ngôn ngữ Trung Việt
Nhiều nhà lý luận dịch đều đưa ra những
giới định của mình về khái niệm “dịch”. Quy kết đơn giản thì họ
đều cho rằng dịch là dùng một loại ngôn ngữ văn tự khác để biểu
đạt ý nghĩa của một loại ngôn ngữ văn tự. Vì thế năng lực vận dụng
thành thạo hai loại ngôn ngữ là yêu cầu cơ bản đối với người làm
công việc dịch. Trong cuốn Bàn về
dịch văn học, ông Vương Hướng Viễn đã phân loại cho dịch văn học,
trong đó bao gồm “dịch trực tiếp” là trực tiếp căn cứ vào nguyên văn
để dịch (cũng gọi là dịch nguyên ngữ) và dịch dựa vào bản dịch phi
nguyên ngữ, tức chuyển dịch. Nói chung, trong tình huống người dịch
không thông hiểu hoặc không thông hiểu mấy văn bản nguyên ngữ, cần phải
dựa vào bản dịch ra ngôn ngữ khác để hoàn thành việc dịch, như vậy,
văn dịch của bản chuyển dịch có tốt hay không, ở mức độ nhất định có
quan hệ rất mật thiết với chất lượng dịch của văn bản mà người
dịch dựa vào vì người dịch không thể đối chiếu với nguyên tác để
xác định văn dịch của văn bản mà mình căn cứ có chuẩn xác hay không.
Hiện nay, hai bản dịch Truyện Kiều ra Trung văn mà chúng ta được thấy, công bằng
mà nói, bản dịch của ông Hoàng Dật Cầu bất kể về văn thể hay về
phong cách ngôn ngữ đều gần hơn với nguyên thi, ngôn ngữ văn dịch cũng
khá nhuần nhuyễn, đẹp nhã. Nhưng điều không thể phủ nhận được là trong
bản dịch ấy quả thật tồn tại một số chỗ dịch lầm hoặc dịch sai
khiến người ta lấy làm tiếc. Ví như trong Truyện Kiều có hai câu (câu 327-328) miêu tả nỗi nhớ nhung
Thúy Kiều của Kim Trọng :
Tháng tròn như gửi cung
mây,
Trần trần một phận ấp
cây đã liều
Ấp cây đã liều trong nguyên thi, nếu trực dịch sang
Hán ngữ thì có nghĩa là “liều ôm lấy cột”. Nguyễn Du đã mượn điển
Trung Quốc “ôm cột giữ niềm tin” (xuất xứ : Đạo Chích. Trang Tử). Đại ý điển này nói thời Chiến
quốc có người tên là Vĩ Sinh hẹn
gặp một cô gái ở dưới cầu. Nước sông không ngừng dâng lên mà cô gái
thì không tới. Để giữ lời hẹn ước, Vĩ Sinh không chịu bỏ đi, cứ ôm
cột cầu rồi bị chết đuối. Về sau “ôm cột giữ niềm tin” được dùng
làm điển ngâm vịnh người giữ vững lời hẹn ước. Nguyễn Du mượn điển
này để miêu tả lòng thành và quyết tâm gặp mặt Thúy Kiều của Kim
Trọng. Vậy mà hai câu này lại được bản của ông Hoàng dịch thành :
Cảnh cảnh thử tâm,
Thủ chu đãi thố cảm từ si tưởng (1).
(Lòng này chăm chăm,
Đâu dám từ bỏ ý nghĩ si ngây ôm cây đợi
thỏ).
Nguyên văn tiếng Trung :
耿耿此心
守株待兔,敢辞痴想?
Dịch như thế rõ ràng hoàn toàn trái với
nguyên ý của tác giả, vì văn dịch không dùng điển trên mà lại dùng
ngụ ngôn kể một người ngu si hy vọng không hề mất công sức mà vớ được
con thỏ đâm sầm phải cây để ví với Kim Trọng khổ sở chờ đợi Thúy
Kiều.
Lại như khi miêu tả nhà họ Vương bỗng gặp
biến cố, Thúy Kiều buộc phải đau khổ lựa chọn giữa tình và hiếu
là hai điều không thể trọn vẹn được cả hai, Nguyễn Du đã dùng hai câu
để thể hiện :
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề
vẹn hai.
Chữ “khôn” trong câu sau có nghĩa là “thông
minh”, “cơ trí” và cũng có nghĩa là “khó mà” hoặc “bó tay”. Ở đây,
rõ ràng Nguyễn Du dùng nghĩa sau, cả câu thơ tương đương với câu chữ
Hán “tình và hiếu thật khó vẹn toàn cả hai”. Còn trong bản Hoàng,
câu này lại được dịch thành “kim nhật tu kiêm cố : tận tình tận
hiếu” (ngày nay phải kiêm cả hai : tận tình tận hiếu). Hiển nhiên
người dịch vì hiểu sai chữ “khôn” mà dẫn đến sai một trời một vực
với nguyên thi. Dựa vào sự hiểu biết về năng lực quốc học thâm hậu
và văn phong nghiêm nhặt của người
dịch, tôi bạo dạn suy đoán rằng, nếu Hoàng Dật Cầu tiên sinh thông hiểu tiếng Việt, căn cứ vào một
bản Truyện Kiều bằng tiếng Việt
thì hẳn là những sai lầm như thế có thể tránh được.
Mặt khác, trong quá trình đọc bản dịch
cùng tên do La Trường Sơn dịch và do Nhà xuất bản Văn nghệ Việt Nam
xuất bản tháng 9 năm 2006, tôi đã phát hiện bản dịch chẳng những
có nhiều lỗi dịch sai “chết người”
mà ngôn ngữ trong văn dịch cũng không ít chỗ do biểu đạt không chuẩn,
hoặc do dịch quá tùy ý, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng văn
dịch.
Lại như câu 689-690 :
Trong tay đã sẵn đồng
tiền,
Dầu lòng đổi trắng thay
đen khó gì !
La Trường Sơn dịch là :
Bất quá, thủ trung hữu
liễu mãi thân tiền,
Yếu tưởng suy phiên giá khởi oan án tịnh bất
nan !
(Chẳng qua trong tay đã có tiền bán mình,
Nếu muốn lật lại vụ án oan này chẳng hề
khó)
Nguyên văn tiếng Trung :
不过,手中有了卖身钱
要想推翻这起冤案并不难!
Câu dịch này càng khác xa ý của nguyên thi.
Thúy Kiều bán mình vì gia đình gặp phải biến cố đột ngột, trong
tình huống không làm sao được, cô bất đắc dĩ phải hy sinh tình yêu
với Kim Trọng. Mục đích của cô rất
đơn giản là để cứu cha, về cơ bản không hề có chuyện muốn “lật lại” bản án.
Huống hồ, đã là “tiền bán mình” thì có được là bao ! Làm sao có
thể “lật lại vụ án oan này”, hơn nữa còn “không khó” nữa ? Nguyên ý câu
thơ là Nguyễn Du tỏ niềm phẫn khái và lên án thói hủ bại có tiền
là có thể sai khiến quỉ thần, đổi trắng thay đen trong xã hội.
Sai lầm còn có thể do văn dịch của La
Trường Sơn thiếu điển nhã và hàm súc
mà ngôn ngữ thơ ca lẽ ra phải có, thậm chí rất không phù hợp với
thân phận của người nói. Ví như một thư sinh đọc làu thi, thư như Kim
Trọng mà lại nói những lời như sau :
Câu 330 : Đài
gương soi đến dấu bèo cho chăng được dịch thành : “Một kẻ thân thế
hàn vi phiêu dạt dấu bèo như tôi, phải chăng nàng ưng ý ?”.
Câu 340-341 : Thiệt
đây mà có ích gì đến ai, Chút chi gắn bó một hai được dịch
thành : “Bỏ lỡ có hội tốt đẹp này,có ích gì với nàng và với tôi,
Trước hết vẫn nên tặng một chút chi đó để
tỏ tình ý yêu mến nhau.”
Câu 523-524 : Thấy
lời đoan chính dễ nghe, Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân được
dịch thành : “Nghe lời Thúy Kiều nói, lý do chính đáng, Kim Trọng
càng để lại đủ nể vì cho nàng”
Còn một tài nữ khuê các như Thúy Kiều cũng “ngữ xuất kinh nhân” như
vậy :
Câu 349-350 : Rằng
trong buổi mới lạ lùng, Nể lòng có
lẽ cầm lòng cho đang được
dịch thành : “Nàng rằng : Lần đầu tiếp xúc, cảm thấy rất lạ lùng,
Có lẽ cả hai đều nể mặt, ai nấy kìm nén thì càng thích hợp”.
Câu 493-494: Rằng
: Quen mất nết đi rồi, Tẻ, vui thôi cũng tính trời biết sao được
dịch thành : “Thúy Kiều nói : Quen mất rồi, cái tật cũ này hôm nay
lại phạm, Nhưng buồn vui cũng là tính trời, thiếp chẳng biết làm
thế nào !”
Câu 753-754 : Phận
sao phận bạc như vôi, Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng được dịch
thành: “Lỡ làng này tình ái của đôi ta nhất định sẽ tiêu tan như
nước chảy hoa rơi”.
Câu 851-852 : Nỗi riêng tầm tã tuôn mưa, Phần căm nỗi
khách, phần dơ nỗi mình được dịch thành : “Nàng căm giận Mã sinh
thô bạo, buông thả, Lại oán bản thân điêm nhiên không biết xấu hổ,
nhục nhã”
Lại còn những chỗ ngôn ngữ văn dịch dùng
từ không thích đáng, hoặc lôgích bất thông, ví như :
Câu 577-578: Người
nách thước, kẻ tay đao, Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi được dịch
thành: “Chúng có kẻ cầm mã đao, có kẻ cặp nách thước, Đúng là một
lũ đầu trâu mặt ngựa, khiến cho trong nhà khói đen chướng khi (có
nghĩa là hỗn loạn. P.T.C)
Câu 633-634 : Nỗi
mình thêm tức nỗi nhà, Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng được
dịch thành: “Nhà gặp nạn và bản thân không may khiến Thúy Kiều tức
đầy bụng, Mỗi bước di chuyển, mắt lại tuôn mấy hàng giọt lệ”, v.v...
Tôi tin rằng, bạn đọc Trung Quốc không hiểu
tiếng Việt mà đọc văn dịch như thế này, hẳn rất khó liên hệ chúng
với một trước tác văn học nổi tiếng.
2. Hiểu sâu văn hóa hai
nước Trung Việt
- Nắm
vững đặc trưng ngôn ngữ thơ ca hai nước Trung - Việt, hiểu chính xác
hàm nghĩa của nguyên thi.
Trong cuốn Nghiên
cứu nghệ thuật thơ ca Trung Quốc, ông Viên Hành Bái có nói : “Nếu
từ góc độ ngôn ngữ học để định nghĩa cho thơ ca thì tôi không ngại
nói rằng thơ ca là biến hình của ngôn ngữ. Thơ ca tách khỏi ngôn
ngữ và ngôn ngữ thông thường trên
mặt giấy, trở thành một hình thức ngôn ngữ khác thường”(1). Hiện tượng biến hình ấy cũng tồn
tại trong ngôn ngữ Truyện Kiều.
Vì thế, trước khi bắt tay vào dịch thơ, người dịch nhất thiết phải
nghiêm túc đọc kỹ nguyên văn, hiểu thấu triệt mỗi một câu thơ trong nguyên văn, nhấm nháp từng ý
trong câu chữ của thơ, hiểu rõ mối quan hệ ngữ pháp giữa các từ với
nhau, nếu không người dịch ắt hiểu lầm nguyên văn, theo đó khi dịch
cũng phạm sai lầm chủ quan, tùy ý. Thử dẫn mấy thí dụ như sau :
Câu 597-598
:
Một ngày lạ thói sai
nha,
Làm cho khốc hại chẳng
qua vì tiền.
Hàm nghĩa của “một ngày” trong câu thơ trên
tương đương với ý trong Hán ngữ “Đâu phải một, hai ngày” hoặc “xưa nay
như thế”. Đào Duy Anh giải nghĩa : “Có phải một ngày đâu (từ xưa đến
giờ vẫn thế), còn ai lạ gì cái thói của bọn sai nha” (Từ điển Truyện Kiều, tr.252). Nhưng
do người dịch không hiểu hàm nghĩa ấy của “một ngày” trong câu thơ mà
hiểu thành “ 1 ngày” hoặc “có 1 ngày”, như thế thì khi dịch nhất
định sẽ xảy chuyện. Xin đọc hai cách dịch sau đây :
Bản dịch của Hoàng Dật
Cầu:
Sực tỉnh ngộ, nha dịch quen thói
Lạm thi hành hình phạt thảm độc, chí không
phải không ở kim tiền.
Nguyên văn tiếng Trung :
猛醒悟,衙役惯态,
滥施毒刑,无非志在金钱。
Bản dịch của La Trường
Sơn:
Nhưng có một hôm, bọn nha dịch đột nhiên nới
tay,
Kỳ thực, trước đó bọn chúng hạ độc thủ
cũng là vì tiền!
Nguyên văn tiếng Trung :
不过有一天,衙役门突然收敛,
其实他们先前狠下毒手,也是为了钱!
Trong cả hai bản dịch, hai câu thơ trên đều
dịch không chính xác, còn một số từ vựng quan trọng khác như “đột
nhiên”, “nới tay”, “trước đó” ở bản dịch của La Trường Sơn lại càng
vô căn cứ, trong nguyên thi không hề có ý nào như thế, toàn do người
dịch tùy ý thêm vào. Như thế là trái với một nguyên tắc dịch quan
trọng là “tín” mà lẽ ra người dịch trước hết phải tuân theo.
Câu 2175-2176 :
Qua chơi nghe tiếng nàng
Kiều,
Tấm lòng nhi nữ cũng
xiêu anh hùng.
Bản dịch của Hoàng Dật
Cầu:
Chàng nghe nói Thúy Kiều tài sắc xuất
chúng,
Tấm lòng nhi nữ cũng khuynh mộ anh hùng.
Bản dịch của La Trường
Sơn:
Chàng nghe nói Thúy Kiều tài sắc xuất
chúng, mộ danh đến thăm,
Tấm lòng nhi nữ cũng từ lâu đã khuynh mộ
người anh hùng.
Cả hai người đều dịch Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng thành “Tấm lòng nhi nữ
cũng khuynh mộ anh hùng” và “Tấm
lòng nhi nữ cũng từ lâu đã khuynh mộ người anh hùng”. Đây rõ ràng là
sai lầm đảo lộn gốc với ngọn,vì
từ “xiêu” (khuynh mộ) trong nguyên thi đã từ cách dùng thông thường
chuyển thành động từ trí sử, tức là “xiêu anh hùng”không phải
"khuynh mộ anh hùng" mà là "khiến anh hùng khuynh
mộ". Đó là vì người dịch không nắm vững một số đặc điểm của
ngôn ngữ thơ ca là thường thay đổi tính năng của từ, đảo ngược thứ
tự của từ cho nên đã hiểu sai nguyên văn “anh hùng xiêu lòng” thành
“nhi nữ xiêu lòng”.
- Hiểu
thấu triệt và chuyển đạt chính xác nội hàm văn hóa của ngôn ngữ
nguyên thi.
“Phiên
dịch là một hiện tượng văn hóa”, quan niệm này ngày càng được nhiều
nhà dịch thuật tán đồng. Giới nghiên cứu phiên dịch cũng càng ngày
càng phổ biến coi trọng tác dụng của nhân tố văn hóa trong phiên
dịch.
Trước hết và cũng là một điểm hết sức
quan trọng là người dịch phải
nghiêm túc đọc thật kỹ nguyên văn, lý
giải và phán định toàn diện nội hàm văn hóa ẩn chứa trong câu, chữ
của nguyên văn cùng truyền thống văn hóa và những tri thức khác về bối cảnh, nếu không ắt dịch sai
hoặc dịch lầm trong văn dịch do không biết hoặc không hiểu nội hàm văn
hóa của nguyên tác. Khi phân tích những chỗ dịch sai hoặc dịch lầm
trong bản dịch của La Trường Sơn, tôi phát hiện có khá nhiều chỗ
chính là do người dịch thiếu hiểu biết về nội hàm văn hóa của
nguyên văn, thậm chí của cả văn dịch mà gây nên. Xin xem thí dụ dưới
đây :
Câu 463-464:
Rằng nghe nổi tiếng cầm đài,
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ.
Ở đây Nguyễn Du đã mượn điển cố lịch sử
đời xưa rất nổi tiếng của Trung Quốc là “cao sơn lưu thủy”. Truyền
rằng thời Xuân Thu, Bá Nha người nước Sở giỏi gảy đàn, tiếng đàn
của ông được Chung Tử Kỳ hiểu rất rành. Sau khi Chung Tử Kỳ chết, Bá
Nha dứt đứt dây, đập vỡ đàn, không còn gảy đàn nữa. Nhà thơ Lý Bạch
từng cảm thán: “Chung Tử Kỳ đã chết, Trên đời hết tri âm” (Lý Bạch: Đêm trăng nghe Lư Kỳ Thuận gảy đàn). Nguyễn
Du mượn điển này để miêu tả tâm tình Kim Trọng tự ví mình với tri âm
của Thúy Kiều và mong mỏi được nghe Thúy Kiều gảy đàn. Bản Trung văn
như sau:
Bản La Trường Sơn:
Kim Trọng thuyết : Thính thuyết nhĩ tại cầm
đài cửu dĩ văn danh,
Cao sơn lưu thủy, tựu chỉ đẳng linh thính
Chung Tử Kỳ đích cầm thanh .
Nguyên văn tiếng Trung:
金重说:听说你在琴台久已闻名,
高山流水,就只等聆听钟子期的琴声。
(Kim Trọng
nói: Nghe nói nàng nổi tiếng chốn cầm đài đã lâu,
Như non cao nước chảy, chỉ đợi lắng nghe
tiếng đàn của Chung Tử Kỳ)
Bản Hoàng Dật Cầu:
Kim sinh đạo: Tố ngưỡng đàn cầm tinh diệu,
Chung Kỳ lưu dự, khả dung tục nhân linh
thưởng?
Nguyên văn tiếng Trung :
金生道:素迎弹琴精妙,
钟期流誉,可容俗人聆赏?
(Kim sinh
nói: Vốn ngưỡng mộ nàng gảy đàn tinh diệu,
Chung Kỳ danh tiếng vang xa, khá để cho kẻ
tục này thưởng thức ?)
Ở bản dịch của ông La, tuy người dịch đã
nhắc đến điển cố “non cao nước chảy” hình dung tiếng đàn cao diệu
cực hay, song đáng tiếc là người dịch lại không hiểu rõ quan hệ giữa
hai nhân vật trong điển cố cho nên mới dịch thành “chỉ đợi lắng nghe tiếng
đàn của Chung Tử Kỳ”, đảo lộn vai trò của người gảy đàn là Bá Nha
với tri âm của ông là Chung Tử Kỳ, làm cho văn dịch mắc phải sai lầm
là đảo lộn chủ khách. Còn trong bản dịch của ông Hoàng, tuy không lầm
lẫn về vai trò chủ khách, nhưng người dịch đã dịch lầm điển cố “non
cao nước chảy” thành “Chung Kỳ danh tiếng vang xa”.
Câu 619-620:
Hạt mưa sá nghĩ phận
hèn,
Liệu đem tấc cỏ quyết
đền ba sinh.
Câu trên là tác giả lấy từ Thân em như hạt mưa rào, Hạt sa xuống giếng,
hạt vào vườn hoa. Câu này là ca dao lưu truyền trong dân gian Việt
Nam, trực dịch là “số phận phụ nữ như hạt mưa từ trên trời rơi xuống,
hạt rơi xuống giếng, hạt rơi xuống vườn hoa” để ví với thân phận
người phụ nữ hoàn toàn không thể nắm vững số mệnh của mình. Câu
dưới là Nguyễn Du vay mượn câu thơ nổi tiếng, khoái chá miệng người
của nhà thơ Mạnh Giao đời Đường trong bài Du tử ngâm : “Thùy ngôn thốn tâm thảo, Báo đắc tam xuân huy”(Ai
bảo tấm lòng non yếu như cỏ của con cái, Báo đáp được tình thương
yêu ấm áp như ánh nắng mùa xuân của mẹ hiền). Nguyễn Du chỉ điều
chỉnh đôi chút là biến thành một dòng thơ lục bát đủ cả vần lẫn
vị bằng tiếng Việt ngụ ý sâu xa. Đó chính là điểm độc đáo về điều
khiển nghệ thuật ngôn ngữ của Nguyễn Du. Nhưng trong quá trình dịch,
nếu người dịch không nhận ra âm thanh ngoài dây đàn ở câu ca dao Việt
Nam và câu thơ Đường nổi tiếng mà Nguyễn Du đã mượn thì khi dịch sẽ
nảy sinh câu văn dịch chẳng ăn nhập gì với bản ý của tác giả :
Bản Hoàng Dật Cầu:
Vũ ti tùy phong phiêu lạc,
Báo thân ân, cảm tích
thanh xuân tự cẩm.
Nguyên văn tiếng Trung :
雨丝随风飘落,
报亲恩,敢惜青春似锦。
(Tơ mưa theo gió bay dạt,
Báo ơn người thân, đâu dám tiếc tuổi xuân
tựa gấm)
Bản La Trường Sơn:
Phiêu linh đích vũ điểm ná cố đắc thượng vi
tiện đích tính mệnh,
Tha yếu thệ tương thốn thảo tâm, báo đáp tam
xuân đích dương quang .
Nguyên văn tiếng Trung:
瓢零的雨点,哪顾得上微贱的性命,
她要誓将寸草心,报答三春的阳光。
(Hạt mưa
phiêu dạt, đâu còn để ý đến tính mệnh yếu hèn,
Nàng thề đem tấm lòng tấc cỏ báo đáp ánh
dương ba xuân)
Vấn đề ở câu dưới bản Hoàng Dật Cầu rất
có thể nảy sinh do bản dịch (bản dịch ra tiếng Pháp. P.T.C) mà người
dịch dựa vào để dịch chưa làm rõ được mối quan hệ giữa câu thơ này
của Nguyễn Du với câu thơ của Mạnh Giao, từ đó dẫn đến văn dịch không
truyền đạt được sít sao hàm nghĩa sâu sắc của nguyên thi; ở bản dịch
của La Trường Sơn, có lẽ người dịch đã ý thức được dụng tâm công phu
của Nguyễn Du, chỉ đáng tiếc là về mặt xử lý văn dịch chưa được
thỏa đáng cho lắm, bởi thế e rằng bạn đọc Trung Quốc rất khó có đủ
nhạy bén để liên hệ “tam xuân đích
dương quang” với tình yêu rộng lớn của mẹ hiền. Còn nếu dịch ba xuân thành “tam xuân huy”thì “thanh
âm ngoài dây đàn” ở đấy, bạn đọc tự nhiên có thể lĩnh hội rất rõ
ràng.
Thực sự cầu thị mà nói, Truyện Kiều dịch ra Trung văn, nhất là bản dịch Trung văn
lý tưởng, đối với bất cứ người dịch nào cũng đều là một thách
thức ngặt nghèo. Gánh nặng ấy sẽ đặt lên vai học giả thông hiểu hai thứ ngôn ngữ Trung Việt và
hiểu biết văn hóa hai nước Trung Việt, không thể có ai khác thay thế
được.
Phạm Tú Châu dịch
(Trích dịch từ GS.Triệu Ngọc
Lan*: Dịch và nghiên cứu Truyện Kim Vân Kiều, Nxb.
Đại học Bắc Kinh, 2013, tr.129 - 139)
* Giáo sư Khoa văn học phương
Đông, chuyên giảng dạy, nghiên cứu ngôn ngữ và văn học Việt Nam. Bà đã
dịch lại Truyện Kiều ra Trung văn
sau nhiều năm cân nhắc, tìm hiểu kỹ lưỡng từng câu, chữ một và đã
được “Kế hoạch xây dựng trường đại học bậc nhất trên thế giới của Trường
đại học Bắc Kinh” tài trợ kinh phí để xuất bản.