1. Chính sử, sách điển chế, sách địa lý ghi rõ việc xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa:
Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789) do các sử thần thời Lê -
Trịnh biên soạn theo lệnh của Trịnh Sâm năm 1775, có đoạn viết: "Ngoài
biển xã An Vĩnh có nhiều đảo lớn gồm hơn 130 đảo, cách nhau một ngày đi
thuyền, hoặc vài canh giờ. Trên đảo có chỗ có suối nước ngọt. Ở bãi cát
lại có ốc vằn, tục gọi là ốc tai voi, ốc xà cừ, ốc hương và hải trùng,
hải sâm, đồi mồi... Đặt đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người xã An Vĩnh
xung vào đội ấy, cắt lượt nhau đi thuyền đến đảo mò tìm sản vật. Mỗi năm
cứ tháng ba ra đi, mang lương ăn sáu tháng, đi thuyền ra biển ba ngày
ba đêm mới đến đảo. Ở đấy tha hồ tìm nhặt, được sản vật gì, bao nhiêu,
đến kỳ tháng tám thuyền cửa Eo, đem đến Phú Xuân nộp. Trong khoảng ấy
cũng có người mò được tiền bạc, chì, thiếc, nồi đồng, súng, khí giới,
ngà voi, bát bằng đá...".
Nội dung trên không có gì mới so với nội dung của Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn, song có giá trị lịch sử được ghi vào chính sử thời Lê - Trịnh. Phủ Biên tạp lục
quyển 2 của Lê Quý Đôn mô tả kỹ càng nhất về Hoàng Sa, đoạn văn đề cập
đến việc Chúa Nguyễn xác lập chủ quyền của Đại Việt tại Hoàng Sa bằng
hoạt động của đội dân binh Hoàng Sa và đội Bắc Hải, như: "Ở ngoài núi Cù
Lao Ré có đảo Đại Trường Sa ngày trước, nơi đây thường sản xuất nhiều
hải vật chở đi bán các nơi, nên Nhà nước có thiết lập một đội Hoàng Sa
để thu nhận các hải vật. Người ta phải đi ba ngày đêm mới đến được đảo
Đại Trường Sa ấy..." (tờ 78b - 79a) hoặc: "Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng
Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng
hai nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng năm chiếc
thuyền câu nhỏ, ra biển ba ngày ba đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt
chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu, như gươm ngựa, hoa bạc,
tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp
ong, đồ sứ, đồ chiên, cũng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm,
hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng tám thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú
Xuân để nộp, cân và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc
vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về. Lượm được nhiều ít không
nhất định, cũng có khi về người không. Tôi đã xem sổ của cai đội cũ là
Thuyên đức hầu biên rằng: Năm Nhâm Ngọ lượm được 30 hốt bạc; năm Giáp
Thân được 5.100 cân thiếc; năm Ất Dậu được 126 hốt bạc; từ năm Kỷ Sửu
đến năm Quý Tỵ, 5 năm ấy, mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba. Cũng
có năm được khối thiếc, bát sứ, và hai khẩu súng đồng mà thôi...
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất hoặc người
thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi
thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi
thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên,
tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng
sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn
vàng bạc của quý ít khi lấy được...
Sang triều Nguyễn từ năm 1802 đến 1909, năm bắt đầu bị tranh chấp,
có rất nhiều tài liệu chính sử, sách điển chế, sách địa lý minh chứng
chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
- Dư địa chí (1821) của Phan Huy Chú - Nhà nghiên cứu bách khoa của Việt Nam đã viết cuốn này trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí. Lịch triều hiến chương loại chí là một công trình biên khảo bách khoa lịch sử lớn gồm 49 quyển, ghi chép đủ mọi phép tắc của các triều đại Việt Nam. Chính Dư địa chí
quyển 5, ở phần Quảng Nam, có nói đến phủ Tư Nghĩa. Hầu hết nội dung
nói về phủ Tư Nghĩa là nói đến Hoàng Sa. Chứng tỏ Hoàng Sa rất quan yếu
đối với phủ Tư Nghĩa hồi bấy giờ. Qua nội dung Phan Huy Chú đã viết,
thấy rất rõ ông đã sử dụng sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn,
đã tóm gọn nhiều nội dung của sách này. Ngoài tả cảnh vật của Hoàng Sa,
ông cho biết: "Tiền Vương lịch triều (các chúa Nguyễn) đặt đội Hoàng Sa
70 tên cũng lấy dân An Vĩnh luân phiên sung vào". Song có dị bản đã chép
nhầm tháng giêng thay vì tháng ba, như Phủ biên tạp lục cho biết
hằng năm "từ tháng ba đội Hoàng Sa đi làm nhiệm vụ cũng ba ngày ba đêm
bằng năm chiếc tiểu điếu thuyền đến Hoàng Sa rồi cũng tháng tám về đến
cửa Eo tới thành Phú Xuân và cũng mang theo lương thực cho sáu tháng".
- Hoàng Việt dư địa chí (1833) không đề tên tác giả, thường gọi là cuốn Địa dư Minh Mạng được khắc in vào năm Minh Mạng thứ 14 (1833), sau đó được tái khắc in nhiều lần. Người ta thấy nội dung có nhiều điều giống Dư địa chí, song đôi chỗ có khác nhau về từ hoặc thêm, bớt và nhất là cách trình bày. Thay vì Dư địa chí gồm năm quyển, thì Hoàng Việt địa dư chí chỉ có hai quyển với cấu trúc khác nhau.
- Đại Nam thực lục phần tiền biên quyển 10, soạn năm 1821 khắc
in năm 1844 của Quốc sử quán triều Nguyễn tiếp tục khẳng định việc xác
lập chủ quyền của Đại Việt cũng bằng hoạt động của đội quân Hoàng Sa và
đội Bắc Hải.
- Đại Nam thực lục chính biên (đệ nhất kỷ khắc in năm
1848, đệ nhị kỷ khắc in xong năm 1864, đệ tam kỷ khắc in xong năm 1879)
của Quốc sử quán triều Nguyễn có cả thảy 11 đoạn viết về quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa với nhiều nội dung mới, phong phú, rất cụ thể về sự tiếp
tục xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo này.
- Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (1851) có đoạn văn đề cập đến việc dựng miếu ở Hoàng Sa trong quyển 207, và đoạn văn trong bộ sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
quyển 221 của Nội các triều Nguyễn có chép: "Bộ Công tâu rằng: Hoàng Sa
ngoài biển rất là hiểm yếu. Hàng năm cần phải đi khám dò khắp chỗ thuộc
đường bể. Lại từ năm nay trở về sau, mỗi khi hạ tuần tháng giêng, chiếu
theo lệ ấy mà làm".
- Trong bộ sách Đại Nam nhất thống chí (soạn xong năm
1882, năm 1910 soạn lần hai và khắc in) cũng của Quốc sử quán triều
Nguyễn đã xác định Hoàng Sa thuộc về tỉnh Quảng Ngãi và tiếp tục khẳng
định hoạt động đội quân Hoàng Sa và đội quân Bắc Hải do đội Hoàng Sa
kiêm quản.
- Trong quyển III Quốc triều chính biên toát yếu của Quốc sử quán triều Nguyễn, đời Vua Minh Mạng, có ba đoạn văn liên quan đến việc xác lập chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa.
Ngoài ra trong các bản đồ của Việt Nam như Đại Nam thống nhất toàn đồ có vẽ Hoàng Sa và Vạn lý Trường Sa trong cương vực của Việt Nam...
2. Qua châu bản, văn bản chính quyền từ Trung ương đến địa
phương ghi rõ việc xác lập và hành xử chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường
Sa:
Tài liệu rất quý giá là châu bản triều Nguyễn (thế kỷ XIX), là các
văn bản của triều đình nhà Nguyễn hiện đang được lưu trữ tại Kho lưu trữ
Trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu
của các đình thần các bộ như bộ Công, và các cơ quan khác hay những Dụ
của các nhà vua về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo
Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vãng thám, đo đạc, vẽ họa đồ Hoàng
Sa, cắm cột mốc... Chẳng hạn như Dụ ngày 18 tháng 7 năm Minh Mạng
thứ 16 (1835) trong Châu bản tập Minh Mạng số 54, trang 92 có đoạn viết
Vua Minh Mạng ra chỉ dụ giao cho Bộ Công phạt cai đội Hoàng Sa Phạm Văn
Nguyên 80 trượng vì tội trì hoãn thời gian công tác hay phạt 80 trượng
giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiệm, Nguyễn Văn Hoằng chưa chu tất
việc vẽ bản đồ Hoàng Sa. Trong khi đó lại thưởng dân binh đội Hoàng Sa
Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh, mỗi người một quan tiền vì đã có công hướng
dẫn hải trình của thủy quân đi Hoàng Sa. Hoặc như Dụ ngày 13
tháng 7 Minh Mạng 18 (1837) trong tập Châu bản Minh Mạng 57, trang 245
có đoạn cho biết trước có phái thủy sư, giám thành, binh dân hai tỉnh
Quảng Ngãi, Bình Định đi Hoàng Sa đo đạc, cắm mốc, vẽ họa đồ, trừ bọn
Phạm Văn Biện gồm bốn tên can tội đã có chỉ phạt trượng, còn binh dân đi
theo lặn lội biển cả cực khổ, thưởng mỗi tên binh đinh một tháng lương
dân phu mỗi tên hai quan tiền.
Cùng với đó còn có Phúc tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm
Minh Mạng thứ 17 (1836 ) trong tập Châu bản Minh Mạng 55 trang 336, ghi
lời châu phê của Vua Minh Mạng: "Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem
theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc, khắc sâu hàng
chữ: "Năm Bính Thân (Minh Mạng thứ 17), họ tên cai đội thủy quân phụng
mệnh đi đo đạc, cắm mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu". Vua cũng phê rằng thuyền
đi đâu, phải cắm cột mốc đến đó để lưu dấu. Phúc tấu cũng còn ghi chánh
đội trưởng Phạm Hữu Nhật được phái từ Thuận An vào Quảng Ngãi để đi
công tác Hoàng Sa. Hoặc Tấu của tỉnh Quảng Ngãi ngày 19 tháng 7
Minh Mạng 19 (1838) xin miễn thuế cho hai chiếc "bổn chinh thuyền".
Trong tập Châu bản Minh Mạng số 64 trang 146 có đoạn viết rằng ngày 19
tháng 7 Minh Mạng thứ 19 (1838): "Xin chiếu lệ miễn thuế năm nay cho hai
chiếc "bổn chinh thuyền" đã đưa binh dân đến Hoàng Sa đo đạc giáp vòng
từ hạ tuần tháng 3 tới hạ tuần tháng 6, hoàn tất công vụ nay đã trở
về".