TRANG CHỦ
TỪ ĐIỂN
TRA CỨU THƯ VIỆN
SƠ ĐỒ TRANG WEB
LIÊN HỆ
NGÔN NGỮ
 
 
Thu viện ảnh
 Thời tiết Minimize | Maximize
 Hà nội  ° 
 Hải phòng  ° 
 Đà nẵng  ° 
 Hồ chí minh  ° 
Truy cập : 9777811
 
NGHIÊN CỨU
Kinh tế Trung Quốc năm 2013 và triển vọng năm 2014 (23/05/2014)

    Bước vào quý IV-2013, kinh tế thế giới xuất hiện nhiều tín hiệu tích cực, châu Âu cuối cùng đã thoát khỏi suy thoái; Nhật Bản vượt qua giảm phát, tăng trưởng trở lại sau 2 thập kỷ trì trệ; kinh tế Mỹ có nhiều dấu hiệu cho thấy thoát khỏi tình trạng tăng trưởng chậm trong nửa đầu năm. Mặc dù kinh tế thế giới đã  tăng trưởng trở lại nhưng còn chậm chạp, nhiều thách thức, bất ổn vẫn phải tiếp tục giải quyết. Đó là tỉ lệ thất nghiệp cao kỷ lục ở châu Âu, người tiêu dùng và doanh nghiệp thắt chặt chi tiêu tại Mỹ, các khoản nợ công khổng lồ ở những nền kinh tế lớn. Bên cạnh đó là kinh tế bất ổn tại các nước mới nổi. Theo nhận định của hơn 20 nhà kinh tế, tăng trưởng toàn cầu vẫn chưa thể phục hồi hoàn toàn trong vòng 15 tháng tới(1).

Trong năm 2013, sự tăng trưởng chậm lại của Trung Quốc được IMF xem là 1 trong 3 rủi ro góp thêm vào bức tranh vốn đã đầy những nhân tố bất ổn của kinh tế thế giới(2). Tuy tăng trưởng chậm lại, nhưng năm 2013 cũng đánh dấu việc Trung Quốc vượt  Mỹ trở thành nước có quy mô thương mại lớn nhất toàn cầu.

I. NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA KINH TẾ TRUNG QUỐC NĂM 2013

1. Tăng trưởng kinh tế suy giảm, kết cấu về đầu tư - tiêu dùng tiếp tục mất cân đối

Theo số liệu công bố ngày 20-1-2014 của Cục Thống kê nhà nước Trung Quốc(3), tính toán sơ bộ năm 2013 GDP đạt 56.884,5 tỉ NDT, tăng trưởng 7,7%. Đây là mức tăng trưởng thấp nhất trong 14 năm qua kể từ năm 1999 (tăng trưởng 7,6%). Trong đó, quý I là 7,7%;  quý II 7,5% ; quý III đạt 7,8% và quý IV là 7,7%.

Nếu phân theo nhóm ngành thì khu vực I (nông nghiệp) đạt 5.695,7 tỉ NDT, tăng trưởng 4,0%; khu vực II (công nghiệp và xây dựng) đạt 24.968,4 tỉ NDT, tăng trưởng 7,8%; khu vực III (dịch vụ) là 26.220,4 tỉ NDT, tăng trưởng 8,3%.

Đáng chú ý là quy mô của ngành dịch vụ lần đầu tiên vượt qua ngành công nghiệp và xây dựng, với tỉ trọng trong GDP đạt đến 46,1% so với mức 43,9% của khu vực II và 10% của khu vực I. Điều này đánh dấu sự thay đổi mang tính lịch sử, song cũng là quy luật thông thường khi Trung Quốc bước vào giai đoạn các quốc gia có thu nhập trung bình(4). Tuy nhiên, nếu so với các nước phát triển như Âu, Mỹ thì ngành dịch vụ của Trung Quốc vẫn còn khoảng cách rất lớn.

Như vậy, kể từ quý IV-2010 tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đã liên tục xuất hiện xu thế suy giảm. Trước tình hình này, việc giữ ổn định tăng trưởng rất được chú trọng, bởi lẽ nếu tăng trưởng không ổn định thì việc làm không ổn định, xã hội cũng vì thế mà có thể trở nên không ổn định, vì vậy Chính phủ Trung Quốc luôn đặt "ổn định tăng trưởng" lên hàng đầu trong phương hướng điều tiết vĩ mô năm 2013, thậm chí nhấn mạnh đưa ổn định tăng trưởng lên vị trí quan trọng hơn nữa.

Ngay từ quý I -2013 nhà nước Trung Quốc đã đưa ra hàng loạt các biện pháp chính sách "ổn định tăng trưởng, điều chỉnh kết cấu, thúc đẩy cải cách". Kể từ tháng 7, Thủ tướng Lý Khắc Cường đã đưa ra các “gói kích thích mini” (theo cách gọi của Bank of America) trên 3 phương diện: (1) Tạm miễn thuế GTGT và thuế thu nhâp doanh nghiêp cho khoảng 6 triu doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ có doanh thu hàng tháng không quá 20.000 NDT kể từ 1-8. Cũng t ngày 1-8, Trung Quc m rng phm vi thí đim trưng thu thuế giá tr gia tăng thay cho thuế thu nhp doanh nghip, c năm s gim thuế khong 120 tỉ NDT; (2) Nghiên cứu quyết định các biện pháp xúc tiến thương mại thúc đẩy sự phát triển ổn định của xuất nhập khẩu; (3) Triển khai cải cách thể chế đầu tư, tài chính vào đường sắt, mở cửa toàn diện thị trường xây dựng đường sắt, mở rộng quyền sở hữu và quyền kinh doanh trong xây dựng đường sắt, đẩy nhanh xây dựng đường sắt ở miền Trung, miền Tây và khu vực nghèo đói(5).

Nhờ vậy mà kinh tế đã phục hồi nhẹ trở lại vào quý III, nhưng quý IV lại giảm và mức tăng trưởng 7,7% cả năm 2013 vẫn là mức tăng trưởng thấp nhất trong 14 năm qua. Kể từ năm 2010 đến nay GDP của Trung Quốc đã liên tục suy giảm trong 4 năm liền.

Lý giải nguyên nhân khiến tăng trưởng GDP suy giảm, ông Thịnh Lai Vận - Người phát ngôn của Cục Thống kê nhà nước Trung Quốc cho biết chủ yếu có 3 phương diện: (1). Tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm thích hợp là phản ánh khách quan quy luật năng suất cận biên giảm dần. Hiện tượng này không phải riêng có của Trung Quốc, một số nước phát triển trên thế giới trong quá trình phát triển khi bước vào giai đoạn điều chỉnh, nâng cấp kết cấu kinh tế cũng xuất hiện hiện tượng suy giảm năng suất, tốc độ tăng trưởng.

(2). Bối cảnh quốc tế vẫn hết sức phức tạp, nhu cầu bên ngoài đối với hàng hóa Trung Quốc còn yếu, việc rút lui gói QE3 cũng khiến các dòng tiền nóng rút khỏi các nền kinh tế mới nổi (trong đó có Trung Quốc), trong nước tiền công lao động tăng cao khiến xuất khẩu của Trung Quốc gặp rất nhiều khó khăn.

(3). Đảng, Chính phủ Trung Quốc chủ động điều tiết. Thông qua các biện pháp chính sách  tăng cường điều tiết, kiểm soát thị trường bất động sản; 8 quy định đối với chi tiêu công, "hoạt động thực tiễn giáo dục đường lối quần chúng", "chỉnh đốn tứ phong" nên cũng ảnh hưởng nhất định đến tiêu dùng. Đặc biệt là có một số chính sách kích cầu trước đây cũng bị hủy bỏ. Điều này trong ngắn hạn đương nhiên khó tránh khỏi những ảnh hưởng nhất định, nhưng về lâu dài sẽ có lợi(6).

*Kết cấu kinh tế mất cân đối về đầu tư - tiêu dùng chưa được giải quyết, thậm chí còn tăng thêm

Xét ba động lực lớn lôi kéo kinh tế tăng trưởng là đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu ròng (cỗ xe tam mã) trong năm 2012 và 2013 (xem bảng).


 

 

Năm 2012

Năm 2013

Đầu tư:

Tỉ lệ đóng góp trong GDP (%)

Lôi kéo GDP (điểm phần trăm)

 

50,4%

3,88

 

54,4%

4,19

Tiêu dùng:

Tỉ lệ đóng góp trong GDP (%)

Lôi kéo GDP (điểm phần trăm)

 

51,8%

3,99

 

50%

3,85

Xuất khẩu ròng

Tỉ lệ đóng góp trong GDP (%)

Lôi kéo GDP (điểm phần trăm)

 

- 2,2%

- 0,17

 

- 4,4%

- 0,34

GDP

7,7%

7,7%

 


Có thể thấy, tỉ lệ đóng góp của đầu tư trong GDP đã tăng lên từ 50,4% (2012) lên 54,4% trong năm 2013; tỉ lệ đóng góp của tiêu dùng lại giảm từ 51,8% (2012) xuống còn 50%; tỉ lệ đóng góp của xuất khẩu ròng là -2,2%(7) giảm xuống -4,4%.

Như vậy trong năm 2013, kết cấu mất cân đối đầu tư cao (trên 50% GDP) và tiêu dùng thiếu hụt không những không được giải quyết mà còn tăng thêm, trong khi xu hướng của thế giới là tỉ lệ đầu tư/GDP giảm xuống thì ở Trung Quốc đầu tư đã ở mức cao lại tiếp tục tăng lên, tiêu dùng đã thiếu hụt thì tỉ lệ tiêu dùng/GDP lại càng giảm, tỉ lệ tiết kiệm/GDP rất cao.

Nếu như năm 2012, tiêu dùng là điểm sáng, vượt qua cả đầu tư trở thành động lực lớn nhất lôi kéo kinh tế tăng trưởng thì trong năm 2013 tăng trưởng tiêu dùng giảm sút do thu nhập thực tế của người dân giảm; đầu tư vẫn là động lực lớn nhất lôi kéo kinh tế tăng trưởng; còn xuất khẩu nếu như trước đây đóng góp đến 25% - 30% GDP, giải quyết 200 triệu việc làm, khiến Trung Quốc được mệnh danh là "công xưởng thế giới", xuất khẩu ròng luôn là động lực lớn thứ 2 chỉ sau đầu tư lôi kéo kinh tế tăng trưởng thì hiện nay thậm chí còn làm giảm mức tăng trưởng. Điều này cho thấy xuất khẩu vẫn gặp rất nhiều khó khăn và mô hình hướng vào xuất khẩu của Trung Quốc rõ ràng cần có sự thay đổi. Mặc dù vậy, nếu xét về giá trị tuyệt đối thì năm 2013, Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành nước lớn nhất thế giới về mậu dịch hàng hóa(8).

Năm 2013, đầu tư tăng chủ yếu do đầu tư vào đường sắt và bất động sản (đầu tư vào lĩnh vực bất động sản vẫn tăng do thị trường bất động sản ấm lên, giá nhà đất liên tục tăng bất chấp các biện pháp khống chế của chính phủ (Từ năm 2012 đến 2013, giá nhà bình quân ở 100 thành phố của Trung Quốc liên tục tăng trong 12 tháng). Năm 2013, đầu tư bất động sản tăng 19,8%.

Để giữ kinh tế tăng trưởng ổn định, trong điều kiện đa số người dân có thói quen tiết kiệm ít tiêu dùng và triển vọng xuất khẩu ảm đạm thì chỉ còn cách dựa vào đầu tư, khiến tốc độ tăng trưởng đầu tư của Trung Quốc luôn ở mức cao, và luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng tiêu dùng (xem bảng). Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến dư thừa sản lượng ở Trung Quốc.


TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG ĐẦU TƯ VÀ TIÊU DÙNG

 

Năm 2008

Năm 2009

Năm

2010

Năm

 2011

Năm 2012

Năm 2013

Tốc độ tăng trưởng đầu tư

25,9%

30,0%

23,8%

23,8%

20,3%

19,6%

Tốc độ tăng trưởng tiêu dùng

22,7%

15,5%

18,3%

17,1%

14,3%

13,1%

Nguồn: Số liệu thống kê của Cục Thống kê nhà nước Trung Quốc


2. Vấn đề dư thừa sản lượng vẫn nổi cộm. Chính phủ Trung Quốc tăng cường mức độ đào thải ngành sản xuất lạc hậu, dư thừa sản lượng

Nếu như nợ xấu, nợ của chính quyền địa phương là cục máu đông làm tắc nghẽn huyết mạch của nền kinh tế trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, thì vấn đề dư thừa sản lượng, hàng tồn kho "khủng" chính là cục máu đông trong lĩnh vực sản xuất ở Trung Quốc.

Đúng là vấn đề sản lượng dư thừa ở Trung Quốc đã thực sự đáng lo ngại, từ những ngành công nghệ thấp đến những ngành công nghệ cao, từ nhu cầu bên trong đến nhu cầu bên ngoài, từ những ngành nghề truyền thống đến những ngành nghề mới đều xuất hiện dư thừa sản lượng với mức độ khác nhau. Đặc biệt là những ngành truyền thống, tiêu hao năng lượng, gây ô nhiễm như gang thép, luyện kim màu, hóa chất…

Năm 2012, sản lượng thép thô của Trung Quốc là 717 triệu tấn, tăng 3,1%, sản lượng thép là 952 triệu tấn, công suất sử dụng là 74,9%. Dự kiến năm 2013 năng lực sản xuất thép cả nước hơn 1 tỉ tấn, trong khi nhu cầu trong nước khoảng 760 triệu tấn, dư thừa vẫn còn nghiêm trọng. Hay như xi măng, năm 2012, sản lượng xi măng của Trung Quốc là 2,18 tỉ tấn, tăng 7,4%, công suất sử dụng của 72,7%. Nửa đầu năm 2013, sản lượng xi măng đạt 1,09 tỉ tấn, tăng 5,5%, công suất sử dụng bằng năm 2012, dư thừa vẫn còn nghiêm trọng. Sản lượng nhôm điện phân của cả nước trong năm 2012 là 19,88 triệu tấn, tăng 13,18%, công suất sử dụng khoảng 73,6%, có đến  93% doanh nghiệp làm ăn thua lỗ,…(9)

Nửa đầu năm 2013, công suất sử dụng ở các doanh nghiệp công nghiệp chưa đến 79%. Ở hầu hết các sản phẩm công nghiệp cung lớn hơn cầu, áp lực giảm giá không ngừng tăng, doanh nghiệp kinh doanh khó khăn, hiệu quả giảm sút, tình trạng thua lỗ tăng. Năm 2012, tỉ lệ thua lỗ của các doanh nghiệp trong ngành sắt thép, nhôm điện phân, xi măng, kính (tấm) lần lượt là 28.2% 34.9% 27.8% 35.7%?tỉ lệ lợi nhuận lần lượt là 1.04%-0.29%6.63%0.14%;  giảm so với cùng kỳ năm trước là 1.373.644.68 và 3.82 điểm phần trăm(10). Một vấn đề đáng chú ý nữa là thực trạng dư thừa sản lượng, làm ăn kém hiệu quả của các doanh nghiệp lại dẫn đến chủ nghĩa bảo hộ địa phương, chia cắt thị trường; thực tế này không có lợi cho việc chuyển đổi phương thức phát triển và điều chỉnh kết cấu kinh tế.

Trước tình hình đó, trong năm 2013 Bộ Công nghiệp và Truyền thông Trung Quốc đã 3 lần công bố danh sách doanh nghiệp năng lực sản xuất lạc hậu phải cắt giảm sản lượng vào các ngày 25-7, ngày 2-9 và ngày 16-9; các ngành bị cắt giảm sản lượng bao gồm: Sắt, thép, than cốc, đất đèn, nhôm điện phân, đồng, chì, xi măng, kính tấm, rượu, bột ngọt, da, in, nhuộm, sợi hóa học, pin chì-axit… và giấy. Những ngành này đều có sản lượng dư thừa nghiêm trọng, năng lực sản xuất lạc hậu và hiệu quả giảm mạnh. Bộ yêu cầu đến cuối năm 2013, công suất dư thừa phải được giải quyết hết. Điều này đồng nghĩa với các dây chuyền sản xuất của một số nhà máy phải đóng cửa, không cho chuyển sang các khu vực khác.

Ngày 4-11, Ủy ban cải cách và phát triển nhà nước cùng với Bộ Công nghiệp và Truyền thông Trung Quốc phối hợp tổ chức hội nghị trực tuyến "Quán triệt thực hiện ý kiến chỉ đạo của Quốc vụ viện về việc giải quyết mâu thuẫn sản lượng dư thừa nghiêm trọng", đưa ra phương châm công tác tổng thể trong thời gian tới; cùng ngày cũng tổ chức hội nghị về thực hiện "tín dụng xanh" của ngành ngân hàng, Ủy ban giám sát ngân hàng đưa ra 6 biện pháp chính sách lớn về tín dụng khác biệt để giải quyết sản lượng dư thừa, thúc đẩy chuyển đổi và nâng cấp nền kinh tế thực. (Nghiêm cấm cho vay thêm đối với những doanh nghiệp thuộc ngành có trong danh mục nêu trên; tiếp tục hỗ trợ tài chính đối với các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả với sản phẩm có sức cạnh tranh, có thị trường; tích cực hỗ trợ đối với những doanh nghiệp có khả năng đầu tư ra nước ngoài,…)

Theo Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Truyền thông Miao Wei, để thích ứng với yêu cầu mới về giải quyết mâu thuẫn sản lượng dư thừa và kiểm soát ô nhiễm không khí, năm 2013 Bộ quyết định tăng cường mức độ đào thải, hoàn thành trước 1 năm so với kế hoạch, có nghĩa là năm 2014 sẽ hoàn thành nhiệm vụ đào thải ngành sản xuất lạc hậu trong Quy hoạch 5 năm lần thứ XII. Bộ trưởng cũng cho biết năm 2015 sẽ đào thải nhiều hơn nữa(11).

Tuy đào thải những ngành sản xuất lạc hậu là con đường tất yếu điều chỉnh kết cấu công nghiệp, giải quyết sản lượng dư thừa, nhưng khó ở chỗ sẽ phải giải quyết hàng loạt vấn đề liên quan đến sắp xếp nhân công, tài sản thiệt hại, xử lý nợ... hơn nữa trong thời gian ngắn cũng sẽ ảnh hưởng đến thu nhập của các chính quyền địa phương, đến việc làm của công nhân.

3. Thu ngân sách giảm, vấn đề mâu thuẫn trong thu chi ngân sách địa phương càng nổi bật

Mức tăng thu ngân sách suy giảm rõ nét trong nửa đầu năm 2013, chỉ đạt 7,5%, lần đầu tiên thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, giảm 4,7 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tăng trưởng thu ngân sách có 4 tháng thấp hơn cùng kỳ năm 2012. Thu ngân sách của Trung ương suy giảm mạnh nhất chỉ tăng 1,5%. Năm 2013, thu ngân sách đạt 12.914,3 tỉ NDT, tăng trưởng 10,1%, giảm 2,7 điểm phần trăm so với năm 2012.

Nguyên nhân chủ yếu là do tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng sản xuất công nghiệp suy giảm, xuất khẩu ảm đạm và các doanh nghiệp làm ăn khó khăn.

Năm 2013, chi ngân sách là 13.974,4 tỉ NDT, tăng so với năm trước 1.379,1 tỉ NDT, tăng trưởng 10,9%(12). Thâm hụt ngân sách là 1.060,1 tỉ NDT, chiếm 1,86% GDP, cao hơn 0,26 điểm phần trăm so với con số 1,6% của năm 2012.

Cũng do thu ngân sách giảm nên mâu thuẫn thu chi ngân sách ở địa phương cũng tăng thêm. Năm 2013, thu ngân sách của địa phương đạt 6.896,9 tỉ NDT; chi ngân sách địa phương là 11.927,2 tỉ NDT(13). Thâm hụt là 5.030,3 tỉ NDT.

Mặc dù Bộ Tài chính và Tổng cục thuế đã nhiều lần "kiên quyết ngăn chặn đóng thuế quá mức", nhưng ở một số địa phương vẫn xuất hiện hiện tượng tăng thu, áp đặt "thuế quá mức", duy trì phân mảng để thu thuế, thậm chí thu phí bất hợp pháp. Nguyên do là, sau khi cải cách chế độ phân bổ nguồn thu từ thuế năm 1994, nguồn thu từ thuế của Chính quyền địa phương các cấp sụt giảm mạnh (Như trong năm 1994, tỉ lệ thu ngân sách của các chính quyền địa phương trên tổng thu của Chính phủ trong 1 năm giảm từ 78% xuống còn 44%). Trong khi chính quyền địa phương phải đối diện với quyền hạn rất lớn, công việc rất nhiều, thậm chí ổn định xã hội hay đô thị hóa… cũng là do chính quyền địa phương, nhưng quyền lực tài chính trong tay chính quyền địa phương còn hạn chế, vì thế để đáp ứng nhu cầu chi phí riêng của mình, chính quyền địa phương các cấp đã thông qua nhiều cách để kiếm thu nhập từ các nguồn thu tài chính khác ngoài thuế (nhất là nguồn thu từ bất động sản), thậm chí là nợ. Và tốc độ tăng trưởng cũng như tỉ trọng của nguồn thu này ngày một cao. Thu ngân sách ngoài thuế (theo quy định, chứ không phải các khoản thu đã nêu trên) của các địa phương chiếm đến 80% tổng thu ngân sách ngoài thuế cả nước, nhưng chỉ chiếm khoảng 20% tổng thu của chính quyền địa phương. Trong khi thu ngân sách ngoài thuế của trung ương chỉ chiếm 5% tổng thu ngân sách cả nước(14). Nói cách khác, thu ngân sách của trung ương chủ yếu từ thuế, còn thu của các chính quyền địa phương chủ yếu ngoài thuế, và các khoản thu ngoài quy định, không hợp lý chiếm đến 30 - 40%.

Các khoản thu này rõ ràng là không có quy phạm, không rõ ràng, không công bằng và mang tính tùy tiện của chính quyền địa phương. Tỉ trọng các khoản thu này không ngừng tăng, làm tăng gánh nặng cho người dân và các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ; làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, hạn chế mở rộng tiêu dùng của người dân.

Ngoài ra, cũng cần nhận thấy tỉ lệ thu ngân sách của chính phủ/GDP là một tỉ lệ quan trọng phản ảnh mối quan hệ giữa chính phủ và thị trường. Hiện tỉ lệ này ở Trung Quốc quá cao, ảnh hưởng nhất định đến tăng trưởng và điều chỉnh kết cấu kinh tế, ảnh hưởng đến việc mở rộng tiêu dùng của cư dân. Về lâu dài cần giảm các khoản thu ngoài quy định của chính quyền địa phương, giảm tỉ lệ thu ngân sách của chính phủ/GDP, điều này sẽ có lợi cho việc thúc đẩy quản lý theo pháp luật, có thể cải thiện tính minh bạch và tính công bằng trong quản lý của chính phủ, thiết lập trật tự bình thường của nền kinh tế thị trường, hình thành kỳ vọng ổn định của các chủ thể kinh tế trong xã hội đối với các hành vi của chính phủ.

4. Nhấn mạnh đô thị hóa kiểu mới

Hội nghị công tác kinh tế Trung ương (15-16/12/2012) đưa ra những điều chỉnh và định hướng kinh tế vĩ mô năm 2013 đã lần đầu tiên đưa vấn đề “thúc đẩy quá trình đô thị hóa, nâng cao chất lượng đô thị hóa” thành một nhiệm vụ chủ yếu của năm 2013.

Ngày 17-3, trả lời phóng viên Tân Hoa xã liên quan đến vấn đề đô thị hóa trong cuộc gặp gỡ báo chí trong, ngoài nước, tân Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường khẳng định đô thị hóa là xu thế tất yếu của hiện đại hóa, cũng là nguyện vọng phổ biến của quảng đại nông dân, đô thị hóa không chỉ đánh động nhu cầu đầu tư và tiêu dùng rất lớn, tạo ra thêm nhiều cơ hội việc làm, mà tác dụng trực tiếp của nó còn làm cho người nông dân trở nên giàu có, mang đến hạnh phúc cho nhân dân. Thủ tướng đồng thời nhấn mạnh đô thị hóa kiểu mới là đô thị hóa lấy con người làm hạt nhân và phải cùng bổ trợ lẫn nhau với hiện đại hóa nông nghiệp, phải giữ được giới hạn đỏ về đất canh tác, bảo đảm an ninh lương thực và bảo vệ lợi ích của nông dân…(15)

Một kế hoạch đô thị hóa vĩ đại được tầng lớp lãnh đạo mới của Trung Quốc đưa ra, với quy mô lớn chưa từng có trong lịch sử nhân loại, theo đó đến trước năm 2025, 70% dân số của Trung Quốc tương đương trên 900 triệu người sẽ là dân thành thị, có nghĩa là từ nay cho đến năm 2025, sẽ có khoảng 250 - 260 triệu nông dân tiếp tục trở thành dân thành thị.

Trên thực tế, tốc độ đô thị hóa của Trung Quốc được thúc đẩy nhanh chóng đặc biệt là những năm gần đây. Tính đến cuối năm 2011, lần đầu tiên dân thành thị (690,79 triệu) đã vượt qua dân số nông thôn (656,56 triệu), với tỉ lệ là 51,3% và 48,7%. Cho đến năm 2012, tỉ lệ này là 52,6% và 47,4%. Với một nước nông nghiệp lớn như Trung Quốc, từ xưa đến nay thường là dân số nông thôn đông, dân thành thị ít; thực hiện chế độ nhị nguyên kéo dài thì việc đưa ra kế hoạch đô thị hóa lớn như vậy cho thấy quyết tâm to lớn, sự thay đổi mạnh mẽ trong chủ trương phát triển đất nước.

Tuy nhiên vấn đề đô thị hóa quá nhanh, quá mạnh đã dẫn đến một loạt các vấn đề xã hội: Trục xuất cưỡng bức, đền bù không công bằng, mất đất canh tác, ngày càng phụ thuộc vào thực phẩm nhập khẩu, tỉ lệ thất nghiệp đô thị tăng vọt, người dân phản kháng…  Đô thị hóa cũng có nghĩa một lực lượng lớn lao động di chuyển ra thành phố. Vấn đề này lại đặt ra thách thức lớn cho các nhà hoạch định đô thị và đối với hệ thống phúc lợi xã hội vốn đã bị “quá tải”. Có thực tế là ở một số địa phương, nông dân thành dân thành thị chỉ là trên danh nghĩa, về mặt hộ khẩu họ đã là dân thành thị nhưng họ chưa được hưởng chế độ phúc lợi như y tế, giáo dục, dưỡng lão, nhà ở,… như người dân thành thị. Trước đây họ ăn, mặc… đều dựa vào đất, rừng, hiện nay mất đất, mất rừng trở thành dân thành thị, nhưng không có bất cứ kỹ năng mưu sinh nào khác, thu nhập không đảm bảo. Đương nhiên trở thành dân thành thị họ sẽ được tham gia bảo hiểm xã hội của dân thành thị nhưng hiện nay thể chế bảo hiểm vẫn chưa kiện toàn và vẫn ở trình độ thấp, nên những người mới trở thành dân thành thị vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi. Chi phí sinh hoạt tăng, thu nhập giảm sút, mức độ bảo đảm phúc lợi không cao, họ vẫn chỉ là rìa của thành phố. Có tình trạng nhiều cư dân đô thị mới không có việc gì làm, suốt ngày chơi mạt chược.

Tóm lại, tiến hành đô thị hóa, nói một cách hình tượng như làm một chiếc cầu để người nông dân có thể vào thành phố (vấn đề là người đi qua cầu rồi sẽ như thế nào?). Hay như thí điểm thành lập khu thương mại tự do Thượng Hải cũng vậy, chỉ là thiết lập khuôn khổ, tạo điều kiện, tạo phương tiện, tạo "cây cầu" để hoạt động thương mại được thuận lợi hơn, tự do hơn. Cũng như một ngôi nhà xây xong rồi, có đủ vật dụng rồi, chúng ta vẫn thấy thiếu một điều gì đó bên trong, chúng ta cần phải có linh hồn cho ngôi nhà - con người. Tất cả những cải cách chỉ là khuôn khổ, chỉ là cây cầu, chỉ là ngôi nhà, chứ không phải là người trong nhà, điều cần làm chính là làm cho người trong ngôi nhà(16).

Chính vì vậy, Thủ tướng Lý Khắc Cường đã nhấn mạnh đô thị hóa kiểu mới là đô thị hóa lấy con người làm hạt nhân. Tức là nếu như đô thị hóa trước đây quá chú trọng vào tạo "khuôn khổ", xây "cây cầu", xây "ngôi nhà", thì đô thị hóa kiểu mới  hiện nay sẽ chú trọng hơn đến "người trong ngôi nhà", "người đi qua cầu".

Mới đây ngày 22-10, ông Cao Quc Lc, Phó Giám đc Vin Nghiên cu khai thác đt đai và kinh tế khu vc thuc Vin Nghiên cu kinh tế vĩ mô ca y ban Phát trin và Ci cách Nhàc Trung Quc cũng chỉ rõ, đô th hóa Trung Quc đã xut hin hin tưng tc đ s dng qu đt cho đô th hóa nhanh hơn tc đ đô th hóa v dân s, đô thị hóa kiểu mi cn phi chú trng đô thị hóa ca con ngưi. Đô thị hóa kiu mi cn phi chuyn đi t coi trọng tc đ, coi trng đt đai sang coi trng con ngưi, coi trng hiệu qu, cn phi quan tâm đô th hóa thc s ca 260 triu lao đng nông dân vào thành ph làm công, gii quyết các vn đ y tế, giáo dc, nhà , cho h(17).

Ngày 16-3-2014, Quy hoạch quốc gia về đô thị hóa kiểu mới giai đoạn 2014-2020 được chính thức công bố. Đây là quy hoạch mang tính vĩ mô, tính chiến lược và mang tính cơ sở định hướng phát triển lành mạnh đô thị hóa cả nước trong giai đoạn tới. Điểm sáng lớn nhất trong quy hoạch lần này chính là nhấn mạnh lấy con người làm gốc, thúc đẩy đô thị hóa lấy con người làm trung tâm(18).

Một vấn đề đáng chú ý nữa là cũng do tc đ s dng qu đt cho đô thi hóa nhanh hơn tc đ đô th hóa v dân s nên đã góp phần tạo nên rất nhiều “thành phố ma” trải khắp cả nước – những thành phố với các công trình kiến trúc hoành tráng nhưng không có người ở như thành phố “nhái” theo Paris Tianducheng, trung tâm thương mại South China Mall, thành phố Kangbashi ở Ordos, Chenggong ở Vân Nam và  khu đô thị mới Zhengdong ở tỉnh Hà Nam... Thực tế này gây nên sự lãng phí nguồn vốn rất lớn, đồng thời tạo ra "núi" nợ xấu ảnh hưởng đến hệ thống tài chính, ngân hàng. Ngày 29-7-2013, Chính phủ Trung Quốc đã yêu cầu các chính quyền địa phương khẩn trương tổng kiểm toán nợ công trên cả nước. Hành động này được cho là nhằm ngăn chặn việc cho vay hàng tỉ USD không được kiểm kê. Theo IMF, nợ công của Trung Quốc chiếm khoảng 45% GDP, còn theo một tính toán khác, con số này lớn hơn rất nhiều đến 64,5% GDP(19).

 Theo kết quả kiểm toán do Kiểm toán Quốc gia Trung Quốc công bố (tháng 6 năm 2013): 36 chính quyền địa phương, với tổng số nợ gần 3.850 tỉ NDT, tăng 12,94% so với năm 2010; trong đó có 16 khu vực tỉ lệ nợ hơn 100%, tỉ lệ nợ cao nhất lên đến 219%. Với tình trạng nợ nần như vậy, nhiều chính quyền địa phương đang trên bờ vực phá sản(20).. Bong bóng nợ - một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế của các nước, đang dần được thổi căng, có nguy cơ vỡ nếu Chính phủ không có các biện pháp "xì hơi".

5. Xuất hiện hiện tượng khan hiếm tiền mặt ở các ngân hàng vào tháng 6 và tháng 12 -2013

Trong năm 2013, ngành ngân hàng Trung Quốc đã 2 lần trải qua tình trạng khan hiếm tiền mặt nghiêm trọng nhất trong lịch sử, vào tháng 6 và tháng 12. Thông thường theo chu kỳ vào tháng 6 và tháng 12 là thời điểm các ngân hàng thường thiếu hụt tiền mặt bởi nhu cầu tăng cao, đặc biệt là tháng 12- tháng đặc thù cuối năm.

Trong tháng 6, các ngân hàng cạn tiền đã gặp rất nhiều khó khăn khi đi vay tiền từ các ngân hàng khác. Lãi suất tăng vọt, ngày 20 - 6, lãi suất liên ngân hàng Thượng Hải (Shibor) chạm mốc cao kỷ lục 13,44%, tăng 578.40 điểm; lãi suất liên ngân hàng qua đêm tăng vọt lên mức 30% (nếu tính theo năm) - mức cao nhất trong lịch sử (đầu năm lãi suất chỉ ở mức 2,5%, đến đầu tháng 6 là 4,5%). Mức lãi suất này gấp 5 lần mức lãi suất cơ bản cho vay kỳ hạn 1 năm, vượt quy định về mức trần lãi suất, là dạng "cho vay nặng lãi".

Còn trong tháng 12,  thanh khoản thiếu hụt, giá vốn liên tục tăng, ngày 19-12 thời gian giao dịch trong thị trường liên ngân hàng kéo dài đến nửa tiếng, chỉ số Shanghai Composite giảm điểm liên tiếp trong 8 phiên, lợi nhuận của các sản phẩm quản lý tài sản ngân hàng siêu ngắn hạn tăng đến hơn 170%. Lãi suất bình quân của khoản vốn mua lại trong 7 ngày đã tăng từ 4,31% (13-12) lên 7,06% (19-12), lần đầu tiên vượt mốc 7% trong khoảng sáu tháng nay(21). Để thu hút tiền gửi, các ngân hàng đã đua nhau tăng lãi suất, tặng quà, "hoàn tiền"… cứ mỗi 10.000 NDT tiền gửi là được hoàn lại 40NDT, khiến lãi suất thực tế tăng mạnh.

Tuy cùng khan hiếm tiền mặt, nhưng bản chất hiện tượng khan tiền trong tháng 6 và tháng 12 không giống nhau. Nếu như tình trạng khan hiếm tiền mặt trong tháng 6 phần lớn có nguyên nhân là do một lượng tiền lớn chuyển ra bên ngoài (trong nửa đầu năm 2013, ngoại tệ ở các ngân hàng Trung Quốc giảm xuống từng tháng (ngoại trừ tháng 2 do yếu tố mùa vụ), từ 50,9 tỷ USD trong tháng 12-2012 đến tháng 5 - 2013 giảm xuống còn 10,4 tỷ USD), thì nguyên nhân khan hiếm tiền mặt trong tháng 12 được phân tích phần lớn là do các nguyên nhân bên trong: Một mặt có thể do lượng tiền gửi thấp xa so với dự kiến; mặt khác còn do ngân hàng Trung ương đã sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, sử dụng công cụ điều tiết tính thanh khoản trong ngắn hạn (gọi tắt là SLO).

Ngoài ra, "khan tiền" trong tháng 6 chủ yếu tập trung ở lượng tiền trong ngắn hạn (trong vòng 1 tuần, vay qua đêm giữa các ngân hàng với nhau), còn "khan tiền" trong tháng 12 lại chủ yếu tập trung ở các hạng mục dài hạn hơn từ 1 tuần đến 1 tháng.

Mặc dù bản chất khác nhau nhưng hiện tượng "khan tiền" ở các ngân hàng cũng khiến người ta lo ngại về sự đổ vỡ của ngành ngân hàng. Đồng thời cũng gióng lên hồi chuông cảnh báo về thể trạng của hệ thống tài chính Trung Quốc - nơi nguồn cung tín dụng tăng trưởng nhanh hơn so với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.

II. CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA THỦ TƯỚNG LÝ KHẮC CƯỜNG

Mặc dù kinh tế quý III - 2013 đã phục hồi trở lại do có các biện pháp điều tiết vĩ mô của Chính phủ, nhưng về lâu dài thì các biện pháp điều tiết vĩ mô không thể thay thế được việc đi sâu cải cách - giải quyết những mâu thuẫn mang tính căn bản của nền kinh tế Trung Quốc. Chính vì thế mà người ta hết sức chú ý đến những biện pháp đi sâu cải cách được cho là mang tính thực chất của tiến sĩ kinh tế - Thủ tướng Lý Khắc Cường.

Nếu như chính sách đầy tham vọng mà Thủ tướng Shinzo Abe của Nhật Bản đang áp dụng (Abenomics) là thông qua gói kích thích tài khóa khổng lồ để vực dậy nền kinh tế với chính sách tiền tệ và tài khóa nới lỏng thì chính sách kinh tế Lý Khắc Cường (Likonomics) gồm 3 phần:

1. Không theo đuổi kích thích chính sách tiền tệ hay tài khóa nới lỏng

2. Các ngân hàng phải kìm hãm sự gia tăng nguy hiểm tài chính bằng cách giảm cung tiền và nợ xấu.

3. Nhấn mạnh sự cần thiết phải tái cấu trúc nền kinh tế, từ thả nổi lãi suất đến tăng giá cả.

Như vậy có thể thấy chính sách mới này (trừ phần 3) dường như đi ngược lại với các chính sách kinh tế trước đây dựa chủ yếu vào đầu tư, đặc biệt là đầu tư công thông qua thúc đẩy tăng trưởng tín dụng... - chính sách đã kéo nền kinh tế tăng trưởng cao trong một thời gian dài.

Một số lĩnh vực khó, "xương xẩu" đều được Thủ tướng chú trọng: như sản lượng dư thừa, tài chính tiền tệ,... Việc chính thức (từ 1-10) tiến trình thí điểm thành lập Khu thương mại tự do Thượng Hải được giới quan sát coi là dấu hiệu cho thấy bước tiến mang tính thực chất trong một loạt những cải cách mới ở Trung Quốc.

Thực tế là nếu đứng ở góc độ nhà đầu tư, việc đầu tư không thu hồi được vốn hay chỉ cần đầu tư không sinh lời thì dù nhà đầu tư có rất nhiều tài sản cũng vẫn phải xem xét lại có nên tiếp tục đầu tư? Nhà nước cũng vậy. Tuy nhiên trong thời gian qua, đầu tư của Trung Quốc luôn ở mức cao, đặc biệt là 2 năm 2009, 2010 triển khai kế hoạch kích cầu trị giá 4.000 tỉ NDT nên đầu tư tăng mạnh, hình thành nên hàng loạt những "thành phố ma" như Ordos, và lượng tồn kho "khủng". Như vậy, bên cạnh tăng trưởng GDP ấn tượng thì rõ ràng là đầu tư không hiệu quả, đầu tư ở mức cao nhưng hiệu quả sử dụng vốn thấp thể hiện qua hệ số ICOR.  Chỉ số này của Trung Quốc khá cao, giai đoạn 2009-2011 hệ số ICOR là 5,0 trong khi ở Nhật giai đoạn 1961-1970 là 3,2 và ở Đài Loan giai đoạn 1981-1990 chỉ là 2,7. Vấn đề của Trung Quốc hiện nay chính là đưa dần tỉ lệ đầu tư về mức tối ưu đồng thời tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư bằng cách hạ thấp hệ số ICOR.

­  Những khó khăn khi thực hiện

Như trên đã phân tích, nếu đầu tư không hiệu quả thì cần thiết phải giảm dần đầu tư, điều này sẽ mang lại sự phát triển bền vững hơn trong tương lai. Tuy nhiên, trong ngắn hạn việc thực hiện nó sẽ gặp phải một số khó khăn.

Trước hết, với mô hình phát triển mà tiêu dùng luôn thiếu hụt (số liệu mới nhất là khoảng 50% GDP, vẫn thấp hơn tỉ lệ 60-70% ở các nước phát triển) hơn nữa trong thời gian ngắn không thể thực hiện tăng trưởng mang tính đột phá; xuất khẩu lại bị ảnh hưởng nặng nề kể từ sau khủng hoảng 2008, xuất khẩu ròng không còn là động lực lôi kéo nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chỉ còn cách dựa vào đầu tư.

Thực tế là đầu tư đã liên tục tăng, tỉ lệ đầu tư trên GDP tăng từ 42% năm 2007 tới 48% năm 2010, 50,4% năm 2012 và lên 54,4% trong năm 2013. Nhiên liệu giúp "chiếc máy bay" phản lực Trung Quốc là sự phát triển bùng nổ của tín dụng: cho vay đã tăng với tốc độ hàng năm gần 30%. Tuy nhiên hệ lụy của nó quá rõ vì thế chính quyền Trung Quốc hiện nay muốn giảm sự phụ thuộc vào đầu tư tín dụng, không theo đuổi kích thích kinh tế, đầu tư sẽ phải giảm dần. Việc giữ ổn định tăng trưởng hết sức cần thiết nên việc giảm đầu tư trong điều kiện bình thường đã khó, còn hiện nay khi xuất khẩu suy giảm sẽ càng khó hơn nhiều. Đây chính là một trong 3 rủi ro mà IMF nhận định về tình hình kinh tế quốc tế năm 2013, đó là kinh tế Trung Quốc đang trải qua một tiến trình tái cân bằng giữa đầu tư và tiêu dùng. Rủi ro nằm ở chỗ, đầu tư của Trung Quốc có thể giảm mạnh trước khi tiêu dùng thực sự hồi phục.

III. TRIỂN VỌNG KINH TẾ TRUNG QUỐC NĂM 2014

1. Một số đường hướng kinh tế mới của Hội nghị Trung ương 3 khóa XVIII và Hội nghị công tác kinh tế Trung ương

1.1. Hội nghị Trung ương 3 khóa XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc diễn ra từ ngày 9 đến 12-11-2013 là sự kiện hết sức quan trọng, được đánh giá là có những thay đổi chính sách “chưa từng thấy”, với một kế hoạch “cải cách toàn diện” nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái điều chỉnh cơ cấu kinh tế, tăng gấp đôi mức sống của người dân Trung Quốc vào năm 2020.

Chủ trương cải cách của Hội nghị lần này chính là tự do hóa thị trường, khuyến khích sáng tạo và cạnh tranh, tăng minh bạch chính phủ.

"Quyết định của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về những vấn đề trọng đại toàn diện đi sâu cải cách" được thông qua tại Hội nghị có nêu: "Cải cách thể chế kinh tế là trọng điểm của toàn diện đi sâu cải cách, vn đ cốt lõi là cn làm rõ mi quan h gia chính ph và th trường, cho phép thị trường đóng vai trò quyết đnh trong viêc phân b các ngun lc và ci thin vai trò ca chính ph".

Thị trường từ "đóng vai trò cơ sở" đến "đóng vai trò quyết định" trong việc phân bổ các nguồn lực cho thấy bước đột phá trong cải cách tại Hội nghị lần này.

Thực chất, thị trường quyết định phân bổ nguồn lực là quy tắc thông thường của kinh tế thị trường, kiện toàn thể chế kinh tế thị trường XHCN cần tôn trọng quy luật này. Đồng thời, từ nay về sau Chính phủ sẽ xác định vị trí hợp lý của mình, thực hiện chuyển đổi chức năng của Chính phủ, xây dựng pháp chế, nhà nước pháp trị và Chính phủ loại hình phục vụ. Giảm với mức độ lớn việc chính phủ trực tiếp phân bổ các nguồn lực (điều tiết vi mô). Chức năng và tác dụng của chính phủ chủ yếu là đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường và ưu hóa dịch vụ công, đảm bảo cạnh tranh công bằng, thúc đẩy phát triển bền vững, bổ trợ đối với những thất bại của thị trường.

 Trong lĩnh vực kinh tế bản "Quyết định" đề ra đi sâu cải cách trên các mặt:

·           Kiên trì và hoàn thiện chế độ kinh tế cơ bản;

·           Đẩy nhanh hoàn thiện thể chế thị trường hiện đại;

·           Thúc đẩy chuyển đổi chức năng chính phủ;

·           Đi sâu cải cách chế độ thuế;

·           Kiện toàn cơ chế thể chế nhất thể hóa phát triển thành thị nông thôn;

·           Xây dựng thể chế mới loại hình kinh tế mở cửa.

Trong đó đáng lưu ý là: Bản "Quyết định" vẫn xác định chế độ công hữu đóng vai trò chủ thể, kinh tế công hữu đóng vai trò chủ đạo, tuy nhiên "kinh tế công hữu và phi công hữu đều là bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế thị trường XHCN, đều là cơ sở quan trọng phát triển kinh tế xã hội Trung Quốc.

Hoàn thiện chế độ bảo vệ quyền tài sản, quyền tài sản chính là cốt lõi của các loại hình sở hữu, "tài sản kinh tế quốc hữu không được xâm phạm, tài sản của kinh tế phi công hữu cũng vậy, không được xâm phạm". Như vậy, kinh tế công hữu và kinh tế phi công hữu được đối xử bình đẳng như nhau. Hơn nữa, đây cũng là quy định mang tính pháp lý về bảo vệ quyền tài sản của vốn tư nhân, vốn nước ngoài tại Trung Quốc, điều này khiến họ yên tâm khi đầu tư vào Trung Quốc.

Ngoài ra, việc đi sâu cải cách chế độ thuế và thể chế tài chính công (thông qua tái cơ cấu về tài lực để điều chỉnh lại phân bổ quyền lực giữa Trung ương và địa phương) và cải cách đất đai nông thôn theo hướng thiết lập thị trường đất đai xây dựng thống nhất thành thị và nông thôn cũng được mọi người quan tâm.

1.2. Những tín hiệu mới từ Hội nghị công tác kinh tế Trung ương Trung Quốc

Hội nghị công tác kinh tế Trung ương của Trung Quốc diễn ra từ ngày 10 đến 13-12-2013, tổng kết công tác kinh tế năm 2013 và đưa ra những nhiệm vụ chủ yếu, yêu cầu tổng thể về công tác kinh tế năm 2014.

Hội nghị công tác kinh tế Trung ương Trung Quốc được tiến hành sau khi Hội nghị Trung ương 3 khoá 18 vừa kết thúc, vì vậy, Hội nghị lần này được đánh giá là bước triển khai quan trọng những quyết sách về cải cách mở cửa vừa được Hội nghị Trung ương 3 thông qua.

Điểm sáng lớn nhất của Hội nghị lần này chính là cải cách sâu rộng toàn diện. Cải cách vẫn là động lực cho sự phát triển, và quan điểm chủ đạo của công tác kinh tế năm 2014 sẽ là “tiến lên trong ổn định, cải cách sáng tạo”. Năm 2014, hai phương diện được chú trọng (có thể khái quát thông qua hai chữ R) là: (1) Cải cách (Reform) và (2) rủi ro (Risk).

Hội nghị đưa ra 6 nhiệm vụ lớn của công tác kinh tế năm 2014:

(1) Thiết thực đảm bảo an ninh lương thực quốc gia;

(2) Nỗ lực điều chỉnh kết cấu ngành nghề;

(3) Tập trung phòng chống và kiểm soát rủi ro nợ;

(4) Tích  cực thúc đẩy phát triển phối hợp giữa các vùng miền;

(5) Tập trung làm tốt công tác bảo đảm và cải thiện dân sinh;

(6) Không ngừng nâng cao trình độ mở cửa đối ngoại.

Như vậy, việc đảm bảo an ninh lương thực và phòng ngừa rủi ro nợ ở các chính quyền địa phương được coi là những nhiệm vụ hàng đầu trong năm 2014.

Một vấn đề nữa cũng đáng lưu ý là lần đầu tiên Hội nghị đưa ra "Nhận thức toàn diện quan hệ tăng trưởng GDP và phát triển lành mạnh bền vững", không nên đơn giản theo đuổi tăng trưởng GDP, mà cần nỗ lực nâng cao chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế, để không mang lại tốc độ tăng trưởng đầy "di chứng".

Như vậy, năm 2014 tốc độ tăng trưởng GDP sẽ được duy trì hợp lý (Hội nghị đề ra là 7,5%), đồng thời thúc đẩy điều chỉnh kết cấu kinh tế, thông qua cải cách đổi mới để giải quyết vấn đề dư thừa sản lượng, phòng ngừa rủi ro nợ…

Theo quan điểm của các chuyên gia nước ngoài, giải quyết vấn đề dư thừa sản lượng, phòng ngừa rủi ro nợ chính là trọng điểm công tác kinh tế trong năm 2014 của Trung Quốc. Rõ ràng  mâu thuẫn chủ yếu của Trung Quốc hiện nay chính là sản lượng dư thừa, vì thế cải cách hay điều chỉnh kết cấu đều cần triển khai xoay quanh trung tâm này, nếu không sẽ khó có hiệu quả.

 2. Dự báo kinh tế Trung Quốc năm 2014

 Mặc dù vẫn còn rủi ro về khủng hoảng ngân sách tại Hoa Kỳ, cũng như việc tiếp tục thắt chặt tiền tệ ở khu vực châu Âu, suy giảm kinh tế tại Trung Quốc và các thị trường mới nổi khác, nhưng kinh tế toàn cầu vẫn được dự báo sẽ phục hồi tăng trưởng trong năm 2014. Tạp chí kinh tế EIU(22) đưa ra dự báo, GDP toàn cầu tính theo ngang giá sức mua (PPP) sẽ tăng khoảng 3,6% trong năm 2014, cao hơn mức 2,8% được dự báo cho năm 2013, chủ yếu là do phục hồi tăng trưởng kinh tế tại các nước phát triển. Các nền kinh tế mới nổi cũng được dự báo sẽ có mức tăng trưởng kinh tế cao hơn trong năm 2014 nhờ nhu cầu tăng lên từ các nước phát triển. Tuy nhiên, Trung Quốc là một ngoại lệ. Tạp chí EIU dự báo kinh tế Trung Quốc suy giảm nhẹ trong năm 2014, đạt mức 7,3%, giảm so với mức 7,5% theo dự báo trước đó. IMF cũng dự báo tăng trưởng GDP Trung Quốc sẽ giảm từ 7,6%  năm 2013 xuống 7,3%  trong  năm  2014(23).

Mặc dù kinh tế thế giới nói chung được dự báo sẽ khởi sắc hơn trong năm 2014, nhưng riêng Trung Quốc thì đa phần đều dự báo kinh tế Trung Quốc sẽ tiếp tục suy giảm nhẹ, nguyên do là Trung Quốc vẫn tiếp tục quá trình chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng cân bằng hơn và thúc đẩy cải cách toàn diện, sâu rộng hơn. Năm 2014 được dự báo là một năm mà chính trị, xã hội, kinh tế Trung Quốc phức tạp nhất trong vòng 20 năm trở lại đây.

Mới đây, Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc và Hội nghị chính trị hiệp thương nhân dân (gọi tắt là Lưỡng Hội), diên ra từ 3-12/3/2014 đã thảo luận và thông qua các chương trình và biện pháp cải cách được Hội nghị TW 3 ĐCS Trung Quốc tháng 11/2013 đề ra nhằm duy trì nền kinh tế “tiến lên trong n đinh”, với các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế xã hội năm 2014: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2014 là 7,5%, kiềm chế lạm phát ở mức 3,5%, tạo 10 triệu việc làm mới ở khu vực thành thị, tỉ lệ thất nghiệp giữ ở mức dưới 4,6%, tăng thu nhập hơn nữa cho người dân, giữ thâm hụt ngân sách năm 2014 ở mức 1.350 tỷ NDT (225 tỷ USD), cao hơn 150 tỷ NDT so với năm 2013.

Tuy nhiên mức tăng trưởng kinh tê Trung Quốc trên thực tế thường cao hơn mục tiêu đặt ra. Trung tuần tháng 1/2014, Ngân hàng Thế giới ra “Báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu mới nhất” dự báo kinh tế Trung Quốc sẽ tăng 7,7% trong năm nay.

Trước đó, Trung tâm Nghiên cứu kinh tế thế giới và Trung Quốc, trường đại học Thanh Hoa ngày 20-10 công bố Báo cáo phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô Trung Quốc quý IV-2013(24) với chủ đề "Môi trường bên ngoài rủi ro, bên trong đi sâu cải cách", trong đó dự báo năm 2013 GDP sẽ đạt 7,7%; năm 2014 tốc độ tăng trưởng GDP sẽ tiếp tục suy giảm còn 7,4%, chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng 3,2%, cả năm thặng dư thương mại sẽ là khoảng 190,2 tỉ USD chiếm 1,8% GDP, M2 tăng 13,9%, đầu tư TSCĐ tăng 19,8%; tiêu dùng tăng 13,1%.

Ngày 16-1-2014, Trung tâm Nghiên cứu khoa học dự báo, Viện Khoa học Trung Quốc công bố "Dự báo kinh tế Trung Quốc năm 2014", trong đó dự báo  năm 2014 GDP tăng trưởng khoảng 7,6%; chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng khoảng  3,1%; cả năm tăng trưởng xuất nhập khẩu khoảng 8,2%; 2014 tiếp tục là năm thứ 11 tăng sản lượng lương thực; giá nhà thương mại trên cả nước tăng 7,6%, trong đó các thành phố cấp 1 sẽ tăng đến 10,2%(25).

Nguyễn Thu Hiền

Viện Nghiên cứu Trung Quốc




Các tin khác

Chương trình khoa học của Viện Nghiên cứu Trung Quốc thực hiện (16/12/2011)
 
TIN MỚI NHẤT
ẤN PHẨM - XUẤT BẢN
 
 
TRANG CHỦ
TỪ ĐIỂN
TRA CỨU THƯ VIỆN
SƠ ĐỒ TRANG WEB
LIÊN HỆ
 
 
BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN NGHIÊN CỨU TRUNG QUỐC - INSTITUTE OF CHINESE STUDIES
Địa chỉ: Số 176 Thái Hà, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
Điện thoại: 024.32171020; Email: vnics@vnics.org.vn