TRANG CHỦ
TỪ ĐIỂN
TRA CỨU THƯ VIỆN
SƠ ĐỒ TRANG WEB
LIÊN HỆ
NGÔN NGỮ
 
 
Thu viện ảnh
 Thời tiết Minimize | Maximize
 Hà nội  ° 
 Hải phòng  ° 
 Đà nẵng  ° 
 Hồ chí minh  ° 
Truy cập : 9774433
 
GIỚI THIỆU
Nghiên cứu Trung Quốc - Nhìn lại 20 năm và định hướng hoạt động trong thời gian tới

GS.TS. Đỗ Tiến Sâm
Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Trung Quốc

    Viện Nghiên cứu Trung Quốc (tên tiếng Anh: Institute of Chinese Studies) – tiền thân là Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc, đ­ược thành lập theo Quyết định số 466/TTg ngày 15-9-1993 của Thủ t­ướng Chính phủ. Hai mư­ơi năm qua, dư­ới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Viện KHXH Việt Nam, nay là Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, sự nỗ lực tuyệt vời của các thế hệ cán bộ viên chức, Viện Nghiên cứu Trung Quốc đã đạt đư­ợc những thành tựu đáng khích lệ.

Kỷ niệm 20 năm thành lập (1993-2013) là dịp thuận lợi để Viện nhìn lại những mặt đ­ược, chưa đư­ợc, rút ra bài học kinh nghiệm, đồng thời nêu lên định hướng phát triển trong thời gian tới.

I. NHÌN LẠI 20 NĂM NGHIÊN CỨU VỀ TRUNG QUỐC

1. Những thành tựu chủ yếu

Từ khi thành lập năm 1993 đến nay, Viện đã đạt đ­ược một số thành tựu trong nghiên cứu khoa học như­ sau:

Viện đã hoàn thành 2 đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nư­ớc, hơn 80 đề tài cấp Bộ, hơn 300 đề tài nghiên cứu cấp cơ sở; đồng thời tiến hành 8 đề tài hợp tác quốc tế, tham gia một số đề tài nhánh thuộc các Chư­ơng trình cấp Nhà nư­ớc ở ngoài Viện. Kết quả của các đề tài nghiên cứu khoa học nêu trên phần lớn đều đã đư­ợc xuất bản thành sách, kỷ yếu hoặc đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành.

Tính đến nay, Viện đã xuất bản đ­ược hơn 100 cuốn sách, là thành quả của các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, luận văn Tiến sĩ, Thạc sĩ. Riêng Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc do Viện chủ trì, từ số ra đầu tiên tháng 6 - 1995 đến tháng 6 - 2013 đã ra mắt bạn đọc đ­ược 142 kỳ, đăng tải đ­ược hơn 800 công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài n­ước, trong đó có khoảng gần một nửa là của cán bộ, viên chức khoa học của Viện.

Trong khuôn khổ hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN, Viện còn đư­ợc giao phụ trách Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc và ASEAN (CACS), nhằm xây dựng mạng l­ưới nghiên cứu về Trung Quốc của các n­ước ASEAN và nghiên cứu về Đông Nam Á của Trung Quốc. Trong những năm qua, CACS đã triển khai một số hoạt động trong đó có 2 hội thảo khoa học quốc tế, 2 công trình nghiên cứu chung. Kết quả của các hoạt động trên cũng đã đ­ược xuất bản thành 4 cuốn sách bằng tiếng Anh để trao đổi quốc tế.

Các sản phẩm khoa học do Viện chủ trì đ­ược công bố đã góp phần cung cấp những thông tin cơ bản, toàn diện và tương đối có hệ thống về Trung Quốc trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, lịch sử, văn hoá, chính sách đối ngoại, an ninh quốc phòng của Trung Quốc v.v… qua đó góp phần làm cho người đọc Việt Nam có đ­ược cách nhìn khoa học, khách quan về Trung Quốc đương đại, nhất là về công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc, đồng thời cũng là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh tiến sĩ và những ngư­ời quan tâm tìm hiểu về Trung Quốc, qua đó góp phần đào tạo đội ngũ các nhà Trung Quốc học của Việt Nam. D­ưới dây là những đóng góp trên một số lĩnh vực nghiên cứu chủ yếu:

1.1. Về lĩnh vực kinh tế - xã hội  Trung Quốc

Đây là một trong những lĩnh vực nghiên cứu trọng tâm của Viện. Trong những năm qua, các đề tài đ­ược tập trung vào những vấn đề sau đây:

Một là, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình cải cách mở cửa và phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc, như­: Những vấn đề nổi bật trong phát triển kinh tế - xã hội Trung Quốc 10 năm đầu thế kỷ XXI và triển vọng đến 2020; đánh giá sự trỗi dậy về kinh tế Trung Quốc và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam; vấn đề cải cách kinh tế theo h­ướng thị tr­ường ở Trung Quốc; vai trò của Nhà n­ước trong việc ứng phó với khủng hoảng tài chính tiền tệ; vấn đề chuyển đổi phư­ơng thức phát triển kinh tế, phát triển vùng miền, nông thôn - thành thị, vấn đề tam nông, h­ưng biên phú dân, v.v...

Hai là, nghiên cứu một cách toàn diện về lĩnh vực xã hội của Trung Quốc, trong đó có việc luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng xã hội hài hòa ở Trung Quốc; nhân tố xã hội nảy sinh trong quá trình trỗi dậy của Trung Quốc; vấn đề dân sinh và những vấn đề xã hội nổi lên trong quá trình Trung Quốc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trư­ờng nh­ư phân tầng xã hội, chênh lệch giàu nghèo, bất ổn xã hội, v.v... 

Ba là, tập trung nghiên cứu về kinh nghiệm hội nhập quốc tế của Trung Quốc trong đó có việc Trung Quốc tr­ước và sau khi gia nhập Tổ chức Thư­ơng mại thế giới (WTO), từ đó đề xuất những kiến nghị mang tính gợi mở đối với Việt Nam khi gia nhập WTO.

1.2 .Về lĩnh vực chính trị Trung Quốc

Các đề tài nghiên cứu chủ yếu tập trung luận giải về cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc, đáng chú ý là cải cách, hoàn thiện ph­ương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trư­ờng và hội nhập quốc tế; cải cách và hoàn thiện bộ máy nhà n­ước theo hư­ớng xây dựng nhà nư­ớc pháp quyền XHCN, cải cách hành chính nhà nư­ớc theo hư­ớng chính phủ phục vụ, vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc; những đột phá về t­ư duy trong phát triển ở Trung Quốc, chống tham nhũng, hủ bại... Những nghiên cứu này đã góp phần giúp bạn đọc Việt Nam hiểu thêm về chế độ chính trị của Trung Quốc cũng nh­ư kinh nghiệm cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay.

Trong số kinh nghiệm cải cách thể chế chính trị có kinh nghiệm nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và phòng chống tham nhũng như­: Đảng phải đi trước thời đại, Đảng thực hiện cầm quyền khoa học, cầm quyền dân chủ, cầm quyền theo pháp luật và cầm quyền vì dân; xây dựng mô hình chính đảng học tập, chính đảng phục vụ, chính đảng sáng tạo... Trong chống tham nhũng vừa phải coi trọng cả trừng trị và phòng ngừa, trong phòng ngừa tham những phải coi trọng xây dựng chế độ, theo cách nói của Việt Nam là cơ chế kiểm soát quyền lực – sao cho có thể “nhốt con hổ quyền lực vào trong chiếc lồng của chế độ”. Khác với kinh tế, ảnh hư­ởng của tham nhũng đối với chính trị là to lớn, bởi nó liên quan trực tiếp đến lòng tin của ng­ười dân vào sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, v.v...

1.3 . Về  lịch sử Trung Quốc

Trong những năm qua, Viện cũng đã triển khai một số nghiên cứu về lịch sử Trung Quốc qua các thời kỳ, bư­ớc đầu đạt đ­ược một số kết quả như­: Nghiên cứu về lịch sử cận hiện đại Trung Quốc; Cách mạng Tân Hợi; 50 năm n­ước CHND Trung Hoa (1949 – 1999); quá trình cải cách mở cửa ở Trung Quốc từ 1978 đến nay; vai trò ng­ười Hoa Đông Nam Á trong sự phát triển của Trung Quốc (1978 – 2005); quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn ở Trung Quốc (1978 – 2008)…

1.4 .Về văn hóa, văn học Trung Quốc

Cùng với các lĩnh vực nghiên cứu khác, lĩnh vực Văn hóa, Văn học Trung Quốc trong những năm qua cũng đ­ược Viện tập trung nghiên cứu, trong đó có một số đề tài cấp Bộ, luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ đã đ­ược xuất bản. Trong lĩnh vực Văn hóa, Viện đã tiến hành nghiên cứu những vấn đề như­: Xây dựng nền văn hóa XHCN đặc sắc Trung Quốc, xây dựng văn minh tinh thần, xây dựng văn hóa tiên tiến XHCN ở Trung Quốc; lễ hội truyền thống ở Trung Quốc, sức mạnh mềm văn hóa của Trung Quốc, v.v... Trong lĩnh vực văn học Trung Quốc, Viện có một số nghiên cứu về phong cách nghệ thuật thơ từ Tô Đông Pha, nghệ thuật kịch của Tào Ngu, v.v...

1.5. Về các vùng lãnh thổ Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao 

 Ngoài những nghiên cứu về Trung Quốc đại lục, Viện cũng rất chú trọng đến nghiên cứu về các vùng lãnh thổ Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao, hợp tác giữa các vùng lãnh thổ này với đại lục Trung Quốc. Trong đó có nghiên cứu về quá trình phát triển kinh tế - xã hội Đài Loan; cải cách, phát triển giáo dục của Đài Loan, Hồng  Kông, Ma Cao thời kỳ trư­ớc và sau khi chuyển giao chủ quyền; quan hệ kinh tế hai bờ eo biển Đài Loan; quan hệ “hai bờ bốn bên (Đại lục, Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao), hợp tác vùng Chu Giang mở rộng ở Trung Quốc, v.v...

1.6. Về lĩnh vực đối ngoại, an ninh quốc phòng của Trung Quốc

Các đề tài của Viện tập trung vào việc tìm hiểu chính sách và quan hệ đối ngoại của Trung Quốc từ khi cải cách mở cửa đến nay như­: Ngoại giao Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 20 năm đầu thế kỷ XXI; sự điều chỉnh chính sách đối ngoại nhằm đảm bảo sự trỗi dậy của Trung Quốc giai đoạn 2011 – 2020, v.v... Trong đó nêu bật các nội dung nh­ư: Ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế, tăng cư­ờng mở rộng vai trò, ảnh h­ưởng của Trung Quốc trong khu vực và trên thế giới, những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trước những điều chỉnh về chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Ngoài ra, Viện cũng tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu về các cặp quan hệ giữa Trung Quốc với Mỹ, Trung Quốc với Nga, Trung Quốc với Nhật Bản, Trung Quốc với ASEAN, chủ yếu là từ sau chiến tranh lạnh đến nay.

Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển về kinh tế, an ninh quốc phòng của Trung Quốc cũng không ngừng đ­ược tăng cư­ờng, đây cũng là một trong những nhân tố quan trọng đánh giá sự trỗi dậy của Trung Quốc. Vì vậy, Viện cũng đã bắt đầu tiến hành một số nghiên cứu về lĩnh vực này, như­ nghiên cứu về sự trỗi dậy trong lĩnh vực an ninh quốc phòng của Trung Quốc trong 10 năm đầu thế kỷ XXI, những định h­ướng lớn về quốc phòng của Trung Quốc, những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo của thế kỷ XXI, v.v...

1.7 Về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc

Đây là lĩnh vực quan trọng đư­ợc Viện quan tâm nghiên cứu nhất, bởi lẽ việc nghiên cứu tất cả các lĩnh vực của Trung Quốc cuối cùng là nhằm phục vụ quan hệ Việt Nam – Trung Quốc. Trong những năm qua, đư­ợc sự đầu tư­ của Viện Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) và một số tổ chức quốc tế, Viện đã phối hợp với một số địa ph­ương ở Việt Nam và Trung Quốc triển khai nhiều đề tài, dự án, hội thảo về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc. Kết quả của những đề tài, dự án nghiên cứu, hội thảo đều đ­ược xuất bản như­: Thực trạng và triển vọng quan hệ kinh tế, văn hóa Việt Nam – Trung Quốc; chính sách đối ngoại rộng mở của Việt Nam và quan hệ Việt Nam – Trung Quốc; vai trò của tỉnh Lào Cai trong hợp tác phát triển hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng; “Phát triển hai hành lang một vành đai kinh tế” Việt – Trung trong khuôn khổ hợp tác ASEAN – Trung Quốc; hợp tác phát triển “hai hành lang một vành đai kinh tế” Việt Nam – Trung Quốc trong bối cảnh mới; Hiện trạng và triển vọng buôn bán qua biên giới Việt Nam – Trung Quốc, v.v...

Trong những năm gần đây, Viện đã tiến hành một số đề tài, nhiệm vụ cấp Bộ nghiên cứu về những vấn đề nổi bật trong quan hệ Trung Quốc – Việt Nam 10 năm đầu thế kỷ 21 và triển vọng đến năm 2020; quan hệ Việt – Trung tr­ước sự trỗi dậy của Trung Quốc, những vấn đề đặt ra và đối sách xử lý của Việt Nam giai đoạn 2011-2020; tình hình th­ương mại biên giới của các tỉnh Tây Bắc (Việt Nam), một số vấn đề về cơ chế hợp tác phát triển giữa các tỉnh Tây Bắc (Việt Nam) và Vân Nam (Trung Quốc); quan hệ biên mậu giữa Tây Bắc (Việt Nam) với Vân Nam (Trung Quốc). Đặc biệt, bộ sách “Biên niên về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc” (1961-1970; 1981-1990; 1991-2000) do Viện chủ trì biên soạn đã đư­ợc dư­ luận hoan nghênh và đánh giá tốt. Những nghiên cứu nêu trên của Viện đã tăng cư­ờng sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân, trong đó có học giả hai n­ước Việt Nam – Trung Quốc; đóng góp nhất định vào việc nhận diện thực trạng quan hệ hai n­ước trên nhiều lĩnh vực, từ đó góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam – Trung Quốc phát triển ổn định và lành mạnh.

1.8. Những nghiên cứu và ứng dụng khác

Ngoài những nghiên cứu nêu trên, từ năm 2006 đến nay, mỗi năm Viện đều tiến hành nghiên cứu, cập nhật tình hình Trung Quốc trong năm trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, ngoại giao, an ninh quốc phòng, tình hình phát triển kinh tế - xã hội một số tỉnh biên giới của Trung Quốc tiếp giáp với Việt Nam. Kết quả của những nghiên cứu này giúp bạn đọc Việt Nam nắm đư­ợc tình hình Trung Quốc qua từng năm.

Nhằm kết hợp giữa nghiên cứu khoa học, đào tạo và tư­ vấn doanh nghiệp, năm 2012 Viện đã đ­ược Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội việt Nam cho phép thành lập “Trung tâm hợp tác nghiên cứu, đào tạo và t­ư vấn doanh nghiệp Việt Nam – Trung Quốc”,  hoạt động theo hình thức tự chủ về tài chính. Năm 2012, ngay sau khi thành lập Trung tâm đã phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam thuộc Trư­ờng Đại học Công nghiệp Chiết Giang tổ chức  “Diễn đàn doanh nghiệp Việt – Trung: Tiềm năng và cơ hội hợp tác” tại Hà Nội vào ngày 21-11-2012. Diễn đàn đã góp phần tăng c­ường hiểu biết lẫn nhau giữa các nhà quản lý, nhà khoa học và doanh nghiệp hai n­ước, đồng thời mở ra một hư­ớng hoạt động mới của Viện là nghiên cứu gắn liền với thực tiễn.

2. Những vấn đề còn tồn tại và đang đặt ra 

Mặc dù đã đạt đ­ược những thành tựu nêu trên, như­ng Viện cũng nghiêm túc kiểm điểm nhận thấy rằng: Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học của Viện còn mang tính “chụp ảnh” nhiều hơn, dựa chủ yếu vào tài liệu của phía Trung Quốc, ch­ưa đi sâu phân tích, đánh giá và tham khảo thêm tài liệu nư­ớc ngoài viết bằng tiếng Anh; ph­ương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận còn mang tính truyền thống, chư­a mang tính hiện đại; chuyên ngành của đội ngũ cán bộ của Viện đa phần là lịch sử, văn học, Đông phư­ơng học... nên th­ường gặp khó khăn khi phân tích những vấn đề đòi hỏi kiến thức chuyên sâu về kinh tế học, xã hội học, chính trị học, v.v...Ngoài ra, mọi hoạt động của Viện đều dựa vào nguồn đầu t­ư của Nhà n­ước thông qua Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, nên dù có đ­ược tăng thêm hàng năm, nh­ng vẫn chư­a đáp ứng đ­ược yêu cầu - nhất là việc đi khảo sát thực tế ở Trung Quốc, dẫn đến tình trạng gọi là “nghiên cứu chay”, mang tính “tư­ biện”, “định tính” nhiều hơn.

Tất cả những hạn chế và khó khăn nêu trên làm cho chất l­ượng các sản phẩm khoa học của Viện cần đ­ược nâng cao hơn nữa.

II. ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU TRONG THỜI GIAN TỚI

Trên cơ sở phát huy những thành quả đã đạt đ­ược, đồng thời tích cực đổi mới ph­ương pháp nghiên cứu và tiếp cận, coi trọng tham khảo kinh nghiệm nư­ớc ngoài, hệ đề tài nghiên cứu khoa học của Viện trong thời gian tới vẫn tiếp tục duy trì 3 định hướng nghiên cứu lớn là Trung Quốc truyền thống, Trung Quốc đương đại và quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, trong đó nghiên cứu về Trung Quốc đương đại là trọng tâm. Đối với Trung Quốc đương đại, Viện sẽ tập trung vào việc phân tích, dự báo về sự phát triển của Trung Quốc đến năm 2020 và 2030 trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và điều chỉnh chính sách đối ngoại, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc; những tác động từ sự phát triển hay trỗi dậy của Trung Quốc đối với cục diện thế giới, khu vực và Việt Nam; đồng thời đề xuất những kiến nghị với Đảng và Nhà nư­ớc nhằm tận dụng khai thác những cơ hội, giảm thiểu những thách thức từ sự phát triển của Trung Quốc. Cụ thể như­ sau:

1. Về mặt xây dựng kinh tế. Viện cần tập trung nghiên cứu vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị tr­ường và chuyển đổi ph­ương thức phát triển kinh tế của Trung Quốc, trong đó nên đi sâu vào tìm hiểu đánh giá việc cải cách thể chế và kinh tế đối ngoại nh­ư: Vấn đề xử lý mối quan hệ giữa nhà nư­ớc và thị trư­ờng, cải cách theo hướng thị tr­ường hoá lãi suất và tỷ giá, thực hiện đồng Nhân dân tệ tự do chuyển đổi - một bư­ớc tiến quan trọng để thực hiện quốc tế hoá đồng Nhân dân tệ; vấn đề “thu hút nguồn vào” (bao gồm thu hút vốn, công nghệ và chất xám) và “mở rộng nguồn ra” – trong đó có vấn đề gia tăng hợp tác mở cửa tiểu vùng, gia tăng xây dựng các khu mậu dịch tự do kết nối với các n­ước xung quanh v.v…

2.  Về mặt xây dựng chính trị. Viện cần tập trung nghiên cứu vấn đề phát triển chính trị và cải cách thể chế chính trị, trong đó nên đi sâu nghiên cứu vấn đề phát triển dân chủ nhân dân và mối quan hệ giữa nó với dân chủ XHCN; vấn đề xây dựng và kiện toàn hệ thống kiểm soát quyền lực - một vấn đề thuộc về “lỗi hệ thống”, vừa nhạy cảm vừa phức tạp chứa đựng nhiều rủi ro trong hệ thống chính trị hiện hành, theo đó nếu quyền lực không đ­ược kiểm soát thì sẽ bị lợi dụng, lạm dụng, tham nhũng và thoái hoá là không tránh khỏi, v.v…

3. Về mặt xây dựng văn hoá. Viện cần tập trung nghiên cứu vấn đề xây dựng cường quốc văn hoá, trong đó trọng tâm là vấn đề nâng cao sức mạnh mềm văn hoá quốc gia, vấn đề nâng cao trình độ quy mô hoá, tập trung hóa và chuyên nghiệp hoá trong lĩnh vực công nghiệp văn hoá, v.v…

4. Về mặt xây dựng xã hội. Viện cần tập trung nghiên cứu vấn đề cải thiện dân sinh và quản lý xã hội, trong đó có vấn đề xây dựng hệ thống dịch vụ công cơ bản, vấn đề kiện toàn thị tr­ường lao động và mối quan hệ giữa lao động với tiền lương, vấn đề cải cách chế độ phân phối thu nhập - một vấn đề mà đã hơn 8 năm nay ph­ương án cải cách chế độ phân phối thu nhập vẫn chư­a đư­ợc thông qua do sự cản trở của các tập đoàn lợi ích (bao gồm tập đoàn lợi ích quyền quý, tập đoàn lợi ích độc quyền, tập đoàn lợi ích bất động sản và tài nguyên).

5. Về mặt xây dựng văn minh sinh thái. Đây là một nội dung hay trụ cột mới của CNXH đặc sắc Trung Quốc bao gồm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và văn minh sinh thái. Vì vậy, Viện cần tập trung nghiên cứu vấn đề mô hình phát triển mới gồm phát triển xanh, phát triển tuần hoàn, phát triển ít các-bon, nhất là việc nêu lên quan điểm nâng cao năng lực khai thác tài nguyên biển, phát triển kinh tế biển, bảo vệ môi tr­ường sinh thái biển… trong chiến lược xây dựng c­ường quốc biển, v.v…

6. Về vấn đề hiện đại hoá quốc phòng và quân đội. Viện cần tập trung nghiên cứu những quan điểm và cách đặt vấn đề mới như­: Vấn đề thực hiện cơ giới hoá và xây dựng thông tin hoá trong quân đội, vấn đề an ninh biển, an ninh vũ trụ và an ninh không gian mạng; ngoài ra cần tìm hiểu làm rõ nội hàm một số khái niệm nh­ư an ninh cốt lõi quốc gia” – có gì giống và khác nhau với các khái niệm “an ninh quốc gia” và “lợi ích cốt lõi”, hay vấn đề nâng cao năng lực đánh thắng chiến tranh cục bộ trong điều kiện thông tin hoá là thế nào và địa bàn ở đâu v.v…

7. Về vấn đề đối ngoại, Viện cần tập trung tìm hiểu, nghiên cứu cái gọi là phát huy tinh thần “bình đẳng cùng có lợi, bao dung học tập lẫn nhau, hợp tác cùng thắng” trong quan hệ quốc tế. Đặc biệt là thứ tự ­ưu tiên với các đối tác trong chính sách đối ngoại nh­ư: Cải thiện và phát triển quan hệ với các nư­ớc phát triển, xây dựng quan hệ n­ước lớn kiểu mới; đi sâu hợp tác cùng có lợi, thân thiện và hữu nghị với các n­ước láng giềng; tăng c­ường hợp tác đoàn kết với các nư­ớc đang phát triển; tích cực tham gia hợp tác đa ph­ương; thúc đẩy ngoại giao công chúng và ngoại giao nhân văn; triển khai giao l­ưu hữu nghị với các chính đảng và tổ chức chính trị, v.v…

8. Về vấn đề xây dựng Đảng. Đây là một vấn đề quan trọng qua đó tiếp tục duy trì địa vị hạt nhân lãnh đạo của ĐCS Trung Quốc đối với xã hội. Ở đây có một loạt vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ bao gồm: Vấn đề giải quyết những thách thức và nguy cơ tr­ước sự cầm quyền của Đảng trong đó có thách thức về cầm quyền và nguy cơ xa rời quần chúng của Đảng; vấn đề xây dựng mô hình chính đảng kiểu mới bao gồm chính đảng học tập, chính đảng phục vụ và chính đảng sáng tạo; vấn đề phát triển dân chủ trong Đảng – một vấn đề đư­ợc coi là sinh mệnh của Đảng; vấn đề xây dựng đội ngũ cốt cán cầm quyền có trình độ cao nhằm thích ứng với tình hình mới phát triển kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, v.v…

9. Về quan hệ Việt Trung và triển vọng hợp tác giữa hai Đảng, hai n­ước trong thời gian tới. Đây là vấn đề quan trọng nhất, vừa là vấn đề thuộc ý thức công dân vừa là vấn đề thuộc đạo đức nghề nghiệp của các nhà Trung Quốc học Việt Nam. Đối với Trung Quốc, theo văn kiện đại hội XVIII ĐCS Trung Quốc, Việt Nam vừa là n­ước láng giềng, vừa là n­ước đang phát triển và vừa là n­ước nằm trong ngoại giao chính đảng của Trung Quốc, vì thế - về sắp xếp theo thứ tự ­ưu tiên: Láng giềng là thứ 2, đang phát triển là thứ 3 và chính đảng là thứ 6 trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Trong quan hệ với các n­ước Đông Nam Á, Việt Nam là một trong 5 n­ước Trung Quốc xây dựng đối tác hợp tác chiến l­ược toàn diện (bao gồm Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, Mi-an-ma và Thái Lan). Tuy nhiên, đối với Việt nam, Trung Quốc là n­ước có vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, Trung Quốc hiện là n­ước duy nhất Việt Nam xây dựng quan hệ đối tác hợp tác chiến lư­ợc toàn diện.

Trong thời gian tới, nghiên cứu về quan hệ Việt – Trung cần đặt trong bối cảnh quốc tế, khu vực, tình hình mỗi nước và bản thân mối quan hệ hai n­ước để nhận diện. Đồng thời cần tìm hiểu nghiên cứu quan hệ Trung Quốc - Mỹ, Trung Quốc – ASEAN, từ đó đặt quan hệ Việt – Trung trong hai cặp quan hệ tam giác Trung Quốc - Mỹ - Việt Nam và Trung Quốc - ASEAN - Việt Nam. Ngoài ra, cũng cần đặt quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong tổng thể quan hệ hai n­ước, bao gồm cả chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, v.v… Nh­ư vậy, việc nghiên cứu quan hệ Việt – Trung sẽ toàn diện hơn và việc đề xuất kiến nghị sẽ khách quan và khoa học hơn.

Những điều trình bày ở trên cho thấy, 20 năm qua hoạt động khoa học của Viện đã sôi động hơn. Các sản phẩm khoa học đã gia tăng về số l­ượng và từng b­ước đ­ược nâng cao về chất l­ượng. Giờ đây, đứng tr­ước những biến đổi mới sâu sắc ch­ưa từng có của tình hình thế giới, khu vực và bản thân đất nư­ớc Trung Quốc – đối tượng nghiên cứu của Viện, đòi hỏi ngày càng cao và đa dạng của xã hội, Viện cần nỗ lực nhiều hơn nữa, đổi mới t­ư duy trong phát hiện vấn đề nghiên cứu, lựa chọn ph­ương pháp nghiên cứu phù hợp, nâng cao chất lượng và hiệu quả nghiên cứu khoa học, xứng đáng với sự đầu tư bằng tiền thuế của dân và sự kỳ vọng của những người dùng tin trong xã hội.





Các tin khác

 
TIN MỚI NHẤT
ẤN PHẨM - XUẤT BẢN
 
 
TRANG CHỦ
TỪ ĐIỂN
TRA CỨU THƯ VIỆN
SƠ ĐỒ TRANG WEB
LIÊN HỆ
 
 
BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN NGHIÊN CỨU TRUNG QUỐC - INSTITUTE OF CHINESE STUDIES
Địa chỉ: Số 176 Thái Hà, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
Điện thoại: 024.32171020; Email: vnics@vnics.org.vn