Quan hệ Việt - Trung trong 10 năm qua đã bước vào thời kỳ phát
triển mới, từ định ra khuôn khổ của quan hệ hai nước trong thế kỷ mới bằng phương
châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” (năm 1999) đến đưa ra tinh
thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng
chí tốt, đối tác tốt” (năm 2002) và nâng quan hệ song phương thành quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện
(năm 2008). Cùng với tăng cường xây dựng niềm tin chính trị, lãnh đạo hai nước luôn
chú trọng đến xây dựng mối quan hệ kinh tế hiệu quả, thiết thực và đang được cụ
thể hóa bằng những kế hoạch phát triển gắn kết hai nền kinh tế như “Hai hành lang,
một vành đai”, “một trục hai cánh”, “hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng”; hướng đến cân
bằng trong cán cân thương mại; tăng đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam. Là một trong
những nội dung chủ yếu trong hợp tác giữa hai nước, đầu tư trực tiếp của Trung Quốc
tại Việt Nam đang ngày càng có vai trò tích cực trong thúc đẩy phát triển chung
của quan hệ hai nước.
Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam
trong những năm qua đã có những chuyển biến rõ rệt so với 9 năm đầu sau khi hai
nước bình thường hóa quan hệ. Từ năm 2000 đến nay, đầu tư của Trung Quốc đã tăng
nhanh chóng cả về số lượng, quy mô và địa bàn đầu tư. Dưới đây sẽ khái quát một
số nét chính về đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam trong 10 năm trở lại đây.
1. Tăng số lượng dự án và quy mô dự án
Nếu
như trong 9 năm kể từ khi bình thường hóa (tháng 11-1991 đến tháng 12-1999), Trung
Quốc mới có 76 dự án với tổng số vốn đầu tư theo giấy phép là 120 triệu USD thì
10 năm sau đến tháng 12-2009 đã có 657 dự án với tổng số vốn đăng ký là
2.673.941.942 USD. Như vậy, trong 10 năm, số dự án của Trung Quốc tại Việt Nam đã
tăng gấp hơn 8 lần, số vốn đăng ký tăng 22 lần so với 9 năm đầu sau khi bình thường
hóa, đưa Trung Quốc lên vị trí 11 trong số 43 nước và vùng lãnh thổ đang đầu tư
trực tiếp tại Việt Nam hiện nay.
Đầu tư của Trung Quốc tăng khá đều đặn qua
các năm, năm 2008 tăng 125%. Tuy nhiên do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính
thế giới, cùng với xu thế đầu tư trực tiếp vào Việt Nam giảm, đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam năm 2009 cũng giảm đáng
kể so với các năm trước cả về số lượng dự án và vốn đăng ký cấp mới. Số dự án và
vốn đầu tư đăng ký cấp mới của Trung Quốc tại Việt Nam năm 2009 (48 dự án và
180,4 triệu USD) chỉ sấp xỉ bằng năm 2004, số dự án bằng nửa và số vốn bằng
khoảng 1/3 của năm 2008.
Trong thời gian 9 năm đầu, vốn đầu tư trung
bình của một dự án khá nhỏ, khoảng 1,5 triệu USD, có nhiều dự án với số vốn đầu
tư theo giấy phép chỉ trên dưới 100.000 USD. Hiện nay, vốn đầu tư trung bình của
một dự án khoảng 4,3 triệu USD, có nhiều dự án trên 1 triệu USD đến 10 triệu USD.
Các dự án có vốn đầu tư trên 10 triệu USD đến 100 triệu USD chủ yếu xuất hiện từ
năm 2007 trở lại đây, trong đó tiêu biểu như dự án đầu tư xây dựng, quản lý và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp
ở Hải Phòng 175 triệu USD của Cty TNHH Liên hiệp đầu tư Thâm Việt; dự án khai thác,
kinh doanh khu công nghiệp, kinh doanh bất động sản ở Tiền Giang 100 triệu USD của
Công TNHH Đầu tư quản lý Tiền Giang, Trung Quốc; dự án sản xuất giày ở Đồng
Nai 60 triệu USD của Công ty Phương Đông - Trung Quốc, dự án
xây dựng nhà máy luyện và cán thép ở Thái Bình 33 triệu USD; dự án Khu đô thị Nam Hoàng Đồng I, thành phố Lạng Sơn
27.750.000 USD của Công ty TNHH Thành Bá Nam Ninh; dự án sản xuất tinh bột Wolfram
xuất khẩu ở Quảng Ninh 20 triệu USD
của Công ty TNHH Wolfram Hạ Long; dự án đúc các sản phẩm kim tiêm nhựa và
các sản phẩm nhựa 20 triệu USD của TAKAOTEK Corp. - Trung Quốc; dự án sản xuất linh kiện điện tử ở Đà Nẵng 18
triệu USD của Công ty TNHH khoa học kỹ thuật Tường Hựu; dự án sản xuất ván ép MDF
ở Long An 10 triệu USD của Cty Glory Wing, Trung Quốc; dự án dịch vụ liên
quan đến gia công in phun, đồ hoạ, sản phẩm quảng cáo, dịch vụ quảng cáo ở thành
phố Hồ Chí Minh 10 triệu của công ty TNHH Hải Thái in phun, quảng cáo Sơn Đông….
Những dự án với vốn đầu tư lớn này đã góp phần thay đổi diện mạo đầu tư của Trung
Quốc tại Việt Nam trong thời gian qua.
2. Chuyển hướng trong lĩnh vực đầu tư
Đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam trong 10 năm qua đã có sự
chuyển hướng từ lĩnh vực khách sạn, nhà hàng và hàng tiêu dùng là chủ yếu sang công
nghiệp chế biến, chế tạo. Trong 17 ngành Trung Quốc có đầu tư ở Việt Nam hiện nay,
công nghiệp chế biến, chế tạo đứng đầu, tập trung 501/657 dự án, chiếm 76%, tiếp
sau đó đến xây dựng chiếm 5,3%, nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 3,8%. Ngoài ra,
đầu tư của Trung Quốc còn phân bố rải rác ở một số lĩnh vực khác như kinh doanh
bất động sản, dịch vụ lưu trú và ăn uống, khai khoáng, thông tin và truyền thông,
điện, khí nước, điều hòa… Cho đến nay, đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam mới tập trung ở những ngành
nghề thông thường, chưa có dự án nào đầu tư ở lĩnh vực công nghệ cao với vốn đầu
tư lớn. Tuy nhiên, sự thay đổi trong lĩnh vực đầu tư như trên đã kéo theo thay đổi
trong quy mô đầu tư, hình thức đầu tư.
3. Thay đổi
về hình thức đầu tư
Trước đây đại đa số các dự án đầu tư trực
tiếp của các doanh nghiệp Trung Quốc vào Việt Nam là thực hiện liên doanh với các
doanh nghiệp Việt Nam, nhưng trong 10 năm trở lại đây đã có sự thay đổi rõ rệt.
Đến năm 2009, có 441/657 dự án đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài, chiếm
67%, đứng đầu trong 4 hình thức đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam, tiếp sau đó
đến liên doanh với 169/657 dự án, chiếm 25%, cuối cùng là hợp đồng hợp tác kinh
doanh và công ty cổ phần. Sự thay đổi này cho thấy, các doanh nghiệp Trung Quốc
đầu tư tại Việt Nam đã trải qua giai đoạn thăm dò, thử nghiệm, dựa vào đối tác địa
phương am hiểu thị trường ở thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Họ đã tự tin, hiểu biết, đủ
khả năng độc lập kinh doanh cũng như đặt niềm tin ở thị trường Việt Nam.
4. Mở rộng
về địa bàn đầu tư
Hiện nay, đầu tư trực tiếp của Trung Quốc
có mặt trên 52 tỉnh, thành của Việt Nam nhưng trong đó chủ yếu tập trung tại các
thành phố đông dân cư, có sức thu hút lao động mạnh, có cơ sở hạ tầng tốt, thuận
lợi cho xuất, nhập khẩu hàng hóa cũng như đi lại giữa Trung Quốc và Việt Nam. Đứng
đầu trong các địa phương thu hút đầu tư của Trung Quốc tính đến cuối năm 2009 là
Hà Nội (112 dự án), thành phố Hồ Chí Minh (60 dự án), Bình Dương (52 dự án), Hải
Phòng (43 dự án), Quảng Ninh (37 dự án). Các dự án đầu tư ở những địa phương này
chủ yếu tập trung vào lĩnh vực chế biến, chế tạo, bất động sản, xây dựng.
Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc cũng đã hướng
đến một số tỉnh biên giới tiếp giáp với Trung Quốc của Việt Nam, trong đó có một
số tỉnh có cơ sở hạ tầng kém, trình độ phát triển thấp, khó thu hút vốn đầu tư nước
ngoài như Lào Cai (26 dự án), Lạng Sơn (20 dự án), Cao Bằng (7 dự án), Lai Châu
(2 dự án). Điều này phản ánh kết quả của việc tăng cường hợp tác giữa các địa phương
hai nước, đặc biệt là sự đẩy mạnh hợp tác với Việt Nam của một số tỉnh Trung Quốc
như Quảng Đông, Vân Nam, Quảng Tây, một xu hướng mới trong phát triển quan hệ Việt
- Trung thời gian qua. Tuy nhiên, các dự án đầu tư của Trung Quốc ở các tỉnh miền
núi phía Bắc Việt Nam chủ yếu tập trung vào khai thác khoáng sản, nguyên vật liệu
thế mạnh của địa phương như dự án chế biến tinh quặng sắt titan ở Thái Nguyên, dự
án xây dựng nhà máy khai thác và chế biến antimon, khai thác và tuyển quặng sắt
ở Hà Giang; dự án xây dựng nhà máy chế biến cao su thiên nhiên thành cao su tổng
hợp, dự án sản xuất gỗ dán, gỗ lạng, ván ép và ván mỏng, dự án phát triển vùng nguyên
liệu lá thuốc lá, kinh doanh, chế biến nguyên liệu lá thuốc lá ở Lào Cai; dự án
khai thác than cứng, non, dự án trồng rừng, chăm sóc chế biến và khai thác lâm sản
ở Hòa Bình; dự án xây dựng nhà máy chế biến nhựa thông ở Lạng Sơn; dự án khai thác khoáng sản và sản xuất than cốc, dự
án gây trồng, thu mua, chế biến và xuất khẩu các sản phẩm từ cây dứa, cao su, bạch
đàn ở Cao Bằng.
Các nhà đầu tư của Trung Quốc tại
Việt Nam chủ yếu tập trung ở một số tỉnh miền Nam, gần hoặc tiếp giáp với Việt Nam
như Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam. Gần đây, xuất khẩu sang các thị trường truyền
thống như châu Âu, Mỹ của Trung Quốc bị thu hẹp do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
tài chính, các tỉnh gần Việt Nam
của Trung Quốc, đặc biệt là Quảng Đông đang đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư và
chuyển hướng đầu tư sang Việt Nam.
Liên tiếp trong 2 năm 2008, 2009, Quảng Đông và Việt Nam đã tổ chức Diễn đàn hợp
tác kinh tế thương mại Quảng Đông – Việt Nam, thu hút đông đảo các doanh nghiệp
có uy tín của hai nước tham gia. Diễn đàn hợp tác kinh tế thương mại Quảng Đông
– Việt Nam năm 2008 nhân chuyến thăm Việt Nam của Bí thư tỉnh ủy Quảng Đông Uông
Dương ngày 6-9-2008, có 250 doanh nghiệp thuộc gần 20 ngành nghề của Quảng Đông
tham dự, diễn đàn tổ chức ngày 20-10-2009 nhân chuyến thăm Việt Nam của Tỉnh trưởng
tỉnh Quảng Đông Hoàng Hoa Hoa với 200 doanh nghiệp Trung Quốc tham dự. Đây là cơ
hội cho các nhà đầu tư Trung Quốc tìm hiểu thị trường, tìm kiếm đối tác, tìm kiếm
lĩnh vực đầu tư ở Việt Nam.
Tính đến tháng 8-2009, các doanh nghiệp Quảng Đông đã
có 44 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư 560 triệu USD. Hàng loạt doanh nghiệp lớn
của Quảng Đông như Media, TCL, Green, Hoa Vĩ, ZTE đã xây dựng cơ sở sản xuất và
hệ thống bán hàng tại Việt Nam. Hiện hai bên đang triển khai dự án xây dựng khu
hợp tác kinh tế mậu dịch Thâm Quyến - Hải Phòng với tổng vốn đầu tư khoảng 4 tỷ
USD, trong đó vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng là 175 triệu USD, đầu tư của doanh
nghiệp tham gia là 4-5 tỷ USD. Dự án này đã trở thành một trong những dự án có số
vốn đầu tư lớn nhất của Trung Quốc ở Việt Nam
hiện nay.
Vân Nam,
Quảng Tây cũng đang tận dụng lợi thế về địa lý của mình, tích cực tìm kiếm cơ hội
đầu tư ở Việt Nam.
Ngày 4-4-2008, Diễn đàn hợp tác đầu tư thương mại Vân Nam – Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội. Vân Nam đang đầu tư ở Việt Nam 47 dự án, với tổng vốn đầu tư là 52 triệu USD.
5. Một vài
nhận xét
Quy mô đầu tư của Trung Quốc ở Việt Nam nhỏ
Mặc dù trong những
năm gần đây, quy mô của dự án đầu tư đã tăng, đã xuất hiện nhiều dự án có vốn đầu
tư trên 10 triệu USD nhưng bên cạnh đó vẫn có những dự án có vốn đầu tư dưới
500.000 USD, thậm chí có dự án dưới 100.000 USD như dự án xuất nhập khẩu, bán
buôn nguyên liệu và phụ gia làm thức ăn cho gia súc 11.000 USD, dự án cấp dịch vụ
đánh giá chứng nhận hệ thống quản lý tiêu chuẩn quốc tế, chất lượng sản phẩm
15.000 USD, dự án sản xuất thi công lắp đặt các loại cửa nhựa, PC-U, linh phụ kiện
liên quan 46.470.00 USD, dự án dịch vụ lắp ráp, hiệu chỉnh, tiêu thụ các tủ điện,
máy biến thế, cầu dao 88.000 USD….. Quy mô đầu tư nhỏ đã kéo theo tình trạng hầu hết
các dự án đầu tư của Trung Quốc có công nghệ thấp, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng phổ
thông.
Đầu tư trực
tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam chưa tương xứng với điều kiện thực tế
Cùng với tiếp tục đi sâu cải cách mở cửa,
hội nhập kinh tế quốc tế, môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng hoàn thiện, có
sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Theo khảo sát các doanh nghiệp Nhật
Bản về hoạt động kinh doanh ở nước ngoài năm 2008 của Ngân hàng hợp tác quốc tế
Nhật Bản, các doanh nghiệp được khảo sát đánh giá môi trường đầu tư Việt Nam xếp
thứ 3 và đứng đầu các quốc gia Đông Nam á trong triển vọng phát triển trung hạn.
Đến cuối năm 2007, Nhật Bản đã đầu tư ở Việt Nam 925 dự án với tổng vốn đầu tư đăng
ký là 9.04 tỷ USD, đứng thứ 4 trong các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.
Còn các nhà đầu tư Đài Loan coi Việt Nam là “sự chuẩn bị cho đầu tư vào Đại lục”,
đến tháng 12-2008, Đài Loan đầu tư ở Việt Nam 1940 dự án với tổng vốn đầu tư là
19,65 tỷ USD, đứng đầu trong các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam(4).
Khi đầu tư vào Việt Nam, các nhà đầu tư Trung Quốc
có những điều kiện thuận lợi mà không phải bất kỳ nhà đầu tư nước ngoài nào cũng
có. Đó là sự gần gũi về địa lý, sự tương đồng về kinh tế, chính trị, văn hóa, sự
ủng hộ tích cực của phía Việt Nam. Về chính trị, đến nay hai
nước đã xây dựng quan hệ hợp tác đối tác chiến lược toàn diện, lãnh đạo cấp cao
thường xuyên thăm viếng lẫn nhau, Chính phủ hai nước hết sức coi trọng phát triển
quan hệ kinh tế thương mại song phương và có những biện pháp thúc đẩy tích cực như
xây dựng Khu mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN, hợp tác kinh tế hai hành lang, một
vành đai, hợp tác tiểu vùng sông Mê Kông. Về thương mại, liên tục trong nhiều năm
qua, Trung Quốc đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam và kim ngạch thương mại
song phương luôn hoàn thành trước thời hạn chỉ tiêu của hai nước đề ra. Tuy trong
10 năm đầu thế kỷ XXI, đầu tư trực tiếp của Trung Quốc ở Việt Nam đã tăng cả về
số lượng dự án lẫn quy mô dự án nhưng đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam vẫn chưa
thực sự tương xứng với quan hệ hai nước cũng như tiềm năng thị trường của Việt Nam,
thực lực kinh tế của Trung Quốc. Cho đến nay, Trung Quốc mới chỉ đứng thứ 11/43
nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp ở Việt Nam, và có khoảng cách rất lớn về
quy mô đầu tư so với những nước đứng đầu.
Theo thống kê về đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép từ 1-1-2009 đến
15-12-2009 của Bộ Kế hoạch Đầu tư Việt Nam, số vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt
Nam năm 2009 chỉ chiếm 1,1% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2009 của Việt
Nam (180,4 triệu/16,35 tỷ USD) và bằng 3% vốn đầu tư vào Việt Nam của nước đứng
đầu là Mỹ (5,94 tỷ USD). Con số này cho thấy, tăng trưởng về đầu tư trực tiếp của
Trung Quốc ở Việt Nam chưa tương xứng với điều
kiện thực tế.
Trong khi đó, liên tục trong những năm gần
đây, đầu tư của Trung Quốc ở Campuchia luôn đứng đầu. Đến tháng 6-năm 2002, đầu
tư của Trung Quốc vào Campuchia là hơn 100 dự án, vốn hiệp định khoảng 350 triệu
USD, xếp thứ 4 sau Malaysia, Đài Loan, Mỹ nhưng đến năm 2009, tổng đầu tư của Trung
Quốc ở Campuchia đã vượt 6 tỷ USD, gấp gần 3 lần đầu đầu tư của Trung Quốc tại Việt
Nam gần 20 năm qua.
Với Lào, hiện Trung Quốc đang đứng ở vị
trí thứ 2 trong tổng số 37 nước có vốn đầu tư trực tiếp tại Lào, sau Thái Lan. Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Lào Sinlavong Khoutphaythoun
cho biết, vốn đầu tư của Trung Quốc tại Lào hiện đã đạt 3,577 tỷ USD (trong đó vốn
đầu tư trực tiếp của Trung Quốc là 2,67 tỷ USD, số còn lại là phần hùn của các liên
doanh giữa hai nước), mặc dù hoạt
động đầu tư của Trung Quốc tại Lào mới chỉ bắt đầu từ năm 1998-1999. Trong 10 tháng năm 2009, Lào đã cấp phép cho 20 dự án của Trung Quốc với số vốn
247 triệu USD và Chính phủ Lào đang xem xét 58 dự án khác của các công ty Trung
Quốc. Khi được thông qua, đầu tư của Trung quốc sẽ gia tăng mạnh, thậm chí có thể
cao hơn cả mức đầu tư của Thái Lan và Việt Nam.
Như vậy, cho đến
nay, đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam, nước có thị trường lớn
nhất, có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong ba nước Đông Dương đều là láng
giềng của Trung Quốc, tăng trưởng chậm nhất với tổng vốn đầu tư thấp nhất.
Một số khó
khăn trong đầu tư của Trung Quốc ở Việt Nam
Theo các nhà đầu tư Trung Quốc, khó khăn lớn
nhất chính là tuy hai nước gần gũi nhưng các doanh nghiệp Trung Quốc chưa hiểu biết
đầy đủ về môi trường đầu tư Việt Nam, thiếu khảo sát về thị trường. Trong khi đó,
hệ thống pháp luật về đầu tư của Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện, hệ
thống pháp luật nói chung còn nhiều lỗ hỗng và hay thay đổi. Thứ hai, doanh nghiệp
Trung Quốc khó tìm được đối tác hợp tác lý tưởng ở Việt Nam, khó khăn trong tạo
niềm tin với chính quyền và doanh nghiệp địa phương, khả năng hợp tác của các doanh
nghiệp Trung Quốc đầu tư ở Việt Nam kém. Thứ ba, một số doanh nghiệp Trung Quốc
không giữ chữ tín, ý thức thương hiệu, dịch vụ hậu mãi kém nên đã ảnh hưởng đến
hình ảnh của nhà đầu tư Trung Quốc ở Việt Nam. Thứ tư, cơ sở hạ tầng của Việt Nam yếu kém.
Một
nhà quản lý của tập đoàn Hồng Đậu, một trong 120 doanh nghiệp thí điểm đi sâu cải
cách của Quốc vụ viện, nhiều năm liền là doanh nghiệp mạnh của Trung Quốc cho rằng,
hiện nay môi trường đầu tư của Campuchia tốt hơn của Việt Nam, rất nhiều doanh nghiệp
đều lựa chọn Campuchia để xây dựng nhà máy, họ đi khảo sát Việt Nam nhưng sau đó
lại xây nhà máy ở Campuchia. Theo ông, “thứ nhất, qua 10 năm phát triển, hệ thống
kinh tế đã cơ bản hình thành, điều đó có nghĩa là không gian phát triển của Việt
Nam có hạn; hai là, Việt Nam không phải là một nước lạc hậu nhất, cho nên xuất khẩu
sang châu Âu và Mỹ không được miễn thuế hoàn toàn và xuất khẩu có hạn ngạch”, “ngược
lại, đầu tư xây dựng nhà máy ở Campuchia có rất nhiều thuận lợi, thứ nhất quan hệ
hai nước tốt, Campuchia dành cho doanh nghiệp nhiều chính sách ưu đãi; hai là Campuchia
là nước lạc hậu, thế giới có nhiều ưu đãi cho Campuchia; ba là, khởi điểm phát triển
kinh tế của Campuchia thấp, cơ hội phát triển sau này nhiều hơn.” Đây
có thể cũng là một trong những lý do khiến đầu tư của Trung Quốc ở Việt Nam đang chuyển hướng sang một
số nước khác trong khu vực.
Tuy nhiên, với những thuận lợi như đã nêu
trên cùng với xu hướng đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc đang ngày một tăng (từ
năm 2002 đến năm 2007, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc tăng gần 7
lần với vốn đầu tư trực tiếp từ 2,5 tỷ USD lên 18,7 tỷ USD, vươn từ vị trí 26 lên
vị trí 13 của thế giới, đứng đầu trong các nước đang phát triển, chúng ta có cơ
sở để tin tưởng đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam sẽ tiếp tục đà tăng
trưởng và có đóng góp tích cực cho kinh tế của mỗi nước cũng như quan hệ Việt –
Trung.
Ths. Nguyễn Phương Hoa
Viện nghiên cứu Trung Quốc