Giai đoạn 1991 – 1995, tổng xuất siêu của Việt Nam
đối với Trung Quốc là 298,5 triệu USD, chiếm 46,8% so với kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam vào Trung Quốc. Giai đoạn 1996 - 2000, tổng xuất siêu đạt 204,3 triệu USD,
chỉ chiếm 5,8%, thấp hơn cả về số tuyệt đối và số tương đối so với giai đoạn trước
(tỷ lệ 5,8% này chỉ bằng 1/8 so với giai đoạn 1991 - 1995. Như vậy trong suốt thời
kỳ 1991 - 2000, Việt Nam liên tục xuất siêu sang Trung Quốc (chỉ trừ năm 1998 Việt
Nam nhập siêu là 74,9 triệu USD chiếm 17% so với kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
vào Trung Quốc của năm này). Tổng xuất siêu của Việt Nam vào Trung Quốc cả thời
kỳ 1991 - 2000 là 502,8 triệu USD, chiếm 12% so với tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam vào Trung Quốc và chiếm 0,7% so với kim ngạch xuất khẩu của cả nước thời
kỳ này. Đây là thời kỳ tốc độ tăng trưởng xuất siêu bình quân của Việt Nam đối với
thị trường Trung Quốc là khá cao (79,5%/năm).
Các kết qủa tính toán từ các số liệu thống kê xuất
nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với Trung Quốc trong 7 năm gần đây cho thấy, từ
xuất phát điểm xuất siêu 110,8 triệu USD, bằng 7,79% kim ngạch nhập khẩu năm
2000, chúng ta đã chuyển sang nhập siêu gần gấp đôi trong năm 2001 (211,0 triệu
USD), bằng 14,48% kim ngạch xuất khẩu và đến nay vẫn hầu như liên tục tăng “phi
mã”: năm 2002 tăng lên 663,3 triệu USD; năm 2003 tăng gần gấp ba lần (1.734,6 triệu
USD); năm 2004 dừng ở mức 1.721,1 triệu USD; năm 2005 tăng gấp 1,64 lần (2.817,9
triệu USD); năm 2006 tiếp tục tăng 1,55 lần
và đạt kỷ lục 4.360,9 triệu USD. Năm 2007 và 2008, con số nhập siêu tương ứng là
9,145 – 11,116 tỷ USD. Tính chung lại, trong những năm đầu thập kỷ này, nhịp độ
tăng nhập siêu của nước ta từ thị trường Trung Quốc gia tăng khá nhanh.
Đây thực sự là những mức nhập siêu rất cao, bởi chỉ
riêng nhập siêu từ thị trường này đã chiếm tỷ trọng khá lớn trong “rổ hàng hoá nhập siêu” của nước ta:
năm 2001: 18,58%; năm 2002: 21,91%; năm 2003: 34,34%; năm 2004: 31,58%; năm
2005: 62,12% ; năm 2006 đạt kỷ lục 81,10%. Năm 2007 và 2008 , các con số tương ứng
là 65,3 và 61,6 %.
Nếu kể cả thương mại dịch vụ, bao gồm ngân hàng, du
lịch, viễn thông và mua điện thì chắc chắn thâm hụt thương mại của Việt Nam còn
cao hơn số liệu đã được Hải quan Việt Nam và Hải quan Trung Quốc công bố .
Nếu như thâm hụt thương mại về số lượng đặt ra những
vấn đề nghiêm túc về cân đối tài khoản vãng lai giữa hai nền kinh tế thì cơ cấu
hàng xuất, nhập khẩu lại cho thấy chất lượng của trao đổi thương mại giữa hai nước
ngày càng bất lợi cho phía Việt Nam.
Đánh giá chung có thể nói, bên cạnh những mặt đạt
được, vẫn còn một số tồn tại có thể kể tới là :
- Khung khổ pháp lý cho trao đổi thương mại đã được
cải thiện đáng kể nhưng vẫn còn một số vấn đề vướng mắc như trong việc thực hiện
Hiệp định ACFTA, ký kết các văn bản quy định về kiểm dịch động thực vật, quản lý
hàng hoá trao đổi qua biên giới...
- Tuy tốc độ tăng trưởng kim ngạch trao đổi hàng hoá
giữa hai nước tương đối nhanh, nhưng kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn chiếm tỷ trọng
thấp trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của mỗi nước: khoảng 5% tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu của Việt Nam và 0,4% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc.
- Việt Nam chưa tận dụng được cơ hội để khai thác
tốt các cơ hội thâm nhập thị trường Trung Quốc trong bối cảnh phía Trung Quốc mở
cửa thị trường, thực hiện cam kết chung trong Chương trình thu hoạch sớm, đặc biệt
là đối với mặt hàng nông sản, thuỷ sản của Việt Nam mà các tỉnh Tây Nam Trung Quốc
có nhu cầu lớn.
- Thương mại chưa thật sự gắn với đầu tư và chuyển
giao công nghệ. Việt Nam chưa tận dụng được cơ hội đầu tư từ Trung Quốc để xuất
khẩu sang thị trường này và các thị trường khác.
- Mặc dầu có lợi thế về vị trí địa kinh tế, nhưng
Việt Nam vẫn chưa khai thác triệt để yếu tố này để tăng kim ngạch xuất khẩu. Lượng
hàng hoá của Trung Quốc quá cảnh qua Việt Nam vẫn còn nhỏ bé. Đầu tư cho cơ sở hạ
tầng giao thông để kết nối với hệ thống giao thông của Trung Quốc vẫn còn hạn chế.
Khả năng tiếp tục gia tăng nhập siêu từ Trung Quốc
trong những năm tới là rất lớn. Do vậy, vấn đề tìm kiếm những giải pháp để khắc
phục quá trình tăng tốc nhập siêu mà lãnh đạo hai nước đã sớm khẳng định khi quyết
định tăng tốc quan hệ thương mại hai chiều lên 25 tỷ USD vào cuối thập kỷ này đã trở thành vấn đề
ngày càng bức xúc.
Mặc dù có sự
thâm hụt cao trong cán cân thương mại với Trung Quốc nhưng đó cũng là điều kiện
cho phát triển kinh tế và đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường khác. Như vậy,
dù có bị thâm hụt cao nhưng không phải là điều quá phải lo lắng khi thâm hụt này
được bù đắp bằng thặng dư từ các thị trường khác. Tuy nhiên cũng phải nói rằng:
Nhập siêu rất lớn ở một số quốc gia châu á,
xuất siêu ở một số quốc gia ngoài khu vực châu á đã trở thành “căn bệnh cố hữu” của nền kinh tế nước ta.
Cơ cấu thương
mại giữa Việt Nam và Trung Quốc là một ví dụ điển hình cho quan hệ Bắc - Nam (khái
niệm trong kinh tế học được dùng để chỉ quan hệ thương mại giữa nước phát triển
ở phia Bắc bán cầu và nước đang phát triển ở phía Nam), trong đó Việt Nam chủ yếu
xuất khẩu nguyên liệu, sản phẩm thô có giá trị gia tăng thấp và nhập những sản phẩm
chế tác, có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao hơn do Trung Quốc sản xuất...
Những nghịch lý này đặt ra những câu hỏi nghiêm túc về sự phát triển kinh tế của
chúng ta: thâm hụt thương mại này có thể tiếp diễn đến mức độ nào và tác động như thế nào tới nền kinh tế Việt Nam (về cán cân
thanh toán quốc tế, nhất là cán cân vãng lai, việc làm và thu nhập của lao động
Việt Nam...). Có thể dự đoán rằng cuộc cạnh tranh này sắp tới sẽ còn gay gắt hơn,
đòi hỏi Việt Nam phải có chính sách và phương án thích hợp.
Xét về phương thức giao dịch , thương mại Việt Nam
- Trung Quốc chủ yếu thực hiện qua đường tiểu ngạch. Buôn bán tiểu ngạch tạo thuận
lợi cho doanh nghiệp giảm được thuế, tiết kiệm một số chi phí bao bì, chất lượng
hàng hoá không đòi hỏi cao, thậm chí tránh được kiểm dịch về an toàn vệ sinh. Tuy
nhiên, buôn bán tiểu ngạch có nhiều điểm yếu, điểm yếu nhất là bị động, không ổn
định. Yếu tố không chắc chắn trong buôn bán tiểu ngạch khiến thương mại Việt - Trung
rủi ro cao và cũng tác động vào các hợp đồng thương mại chính ngạch trong nước.
Buôn bán tiểu ngạch diễn ra phụ thuộc chủ yếu vào giá cả, khi giá tăng dẫn tới hiện
tượng tranh mua ở thị trường trong nước, việc tranh mua đối với nhiều loại nông
sản gây phá vỡ các hợp đồng của các đối tác đã ký hợp đồng tiêu thụ nông sản với
nông dân.
Một số vấn đề đặt ra trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc
trong giai đoạn tới:
Vấn đề thứ nhất, Trung Quốc là một nước lớn, đang
phát triển rất nhanh và có sức thu hút toàn cầu. Sự phát triển của Trung Quốc là
cơ hội phát triển cho Việt Nam. Việt Nam phải cải cách, phát triển nhanh mới tận
dụng được cơ hội này. Chậm trễ thì nguy cơ tụt hậu càng cao và càng tụt hậu càng
khó hợp tác, càng nhiều bất lợi.
Trung Quốc phát triển nhanh, ổn định là một cơ hội
lớn đối với Việt Nam. Vì rằng với một thị trường rộng lớn, nhu cầu về nhiều mặt
hàng mà Việt Nam có lợi thế như khoáng sản, nông sản, vị trí địa lý thuận lợi, quan
hệ hợp tác hai bên đang ở vào thời kỳ được đẩy mạnh, thị trường Trung Quốc trong
tương lai là nơi tập trung của các công ty hàng đầu thế giới... Các yếu tố này sẽ
tạo thuận lợi cho Việt Nam với tư cách là nước láng giềng nhỏ hơn và trình độ phát
triển thấp hơn. Tuy nhiên, thách thức cạnh tranh cũng sẽ rất lớn. Việt Nam phải
thay đổi, phải nhanh chóng lớn mạnh mới tận dụng được cơ hội này.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức khá cao và ổn
định như hiện nay, cùng một thị trường hơn 1,3 tỷ người tiêu dùng đang trong quá
trình chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu tiêu dùng, thị trường Trung Quốc sẽ vẫn tiếp
tục là thị trường trọng điểm, có tầm quan trọng to lớn đối với xuất khẩu của Việt
Nam. Với xu hướng tăng trưởng khá nóng như hiện nay, trong vòng 10 năm tới, nhu
cầu về năng lượng, về nguyên liệu đầu vào phục
vụ sản xuất, tiêu dùng của Trung Quốc sẽ rất cao. Vì vậy, chúng ta cần phát huy
những ưu thế về địa lý, về tính chất bổ sung trong cơ cấu hàng hoá giữa hai nước
và các nhân tố có lợi khác để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.
Thị trường Trung Quốc đang trong giai đoạn thay đổi
mạnh về cơ cấu và xu hướng tiêu dùng, song với một số lượng dân số khổng lồ, với
mức thu nhập ngày càng cao do kinh tế tăng trưởng liên tục, dự đoán nhu cầu của
thị trường này đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dầu thô,
than đá, thuỷ, hải sản, rau quả, đồ gỗ, hạt điều và các loại hàng nông sản, trong
giai đoạn 2007-2015 vẫn là rất lớn. Đặc biệt, nhu cầu đối với nhóm hàng năng lượng như dầu thô, than đá, cao
su sẽ ngày càng tăng mạnh. Trong tương lai, từ năm 2015 trở đi, ngoài nhu cầu về
cao su, Trung Quốc sẽ tiếp tục gia tăng nhập khẩu Boxit Alumi, các loại quặng, hàng
điện tử và nhiều loại hàng tiêu dùng khác. Đây hầu hết là những nhóm hàng hoá mà
Việt Nam rất có tiềm năng. Do đó, chúng ta cần tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng các mặt hàng này để khai thác
tối đa lợi thế xuất khẩu.
Tận dụng cơ hội từ sự phát triển của Trung Quốc, Việt
Nam phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh để cải thiện cán cân thương mại,
duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bền vững. Hiện nay, gần 90% hàng xuất khẩu
của Việt Nam sang Trung Quốc là hàng nguyên liệu thô trong đó có những mặt hàng
đang hạn chế về số lượng và khả năng khai thác như dầu thô, than đá, thuỷ sản, cao
su... Hàng chế biến của Việt Nam chỉ chiếm một tỷ trọng quá nhỏ bé và đang chịu
sức ép cạnh tranh ngày càng lớn từ các nước ASEAN và ấn Độ. Trong điều kiện gia
tăng nhập siêu từ Trung Quốc, nếu không cải thiện sức cạnh tranh của hàng hoá xuất
khẩu, Việt Nam sẽ khó khăn trong việc cải thiện cán cân thương mại với Trung Quốc
trong thời gian tới. Quan hệ thương mại hai nước muốn phát triển trên cơ sở vững
chắc và cùng có lợi thì việc khai thác các lợi thế để phát triển theo chiều sâu
luôn luôn mang tính quyết định.
Việt Nam cần tận dụng lợi thế về vị trí địa kinh tế
để phát triển các loại hình khác như vận tải quá cảnh, du lịch, thu hút FDI. Một
thực tế là, trong vài ba năm tới, hàng hoá và dịch vụ Việt Nam rất khó thâm nhập
vào thị trường khu vực phát triển của Trung Quốc do tính chất tương đồng và hạn
chế sức cạnh tranh của hàng hoá nước ta hiện tại. Quan hệ thương mại giữa Việt Nam
và Trung Quốc chủ yếu là quan hệ thương mại Việt Nam với các tỉnh Tây Nam Trung
Quốc. Đây không phải là thị trường phát triển đòi hỏi hàng hoá chất lượng cao, do
đó không phải là hướng để ta đầu tư phát triển xuất khẩu trong tương lai. Trước
tình hình đó cần tranh thủ để phát triển các lĩnh vực khác như làm nơi trung chuyển
cho hàng hoá của Trung Quốc, phát triển thương mại thông qua phát triển du lịch.
Vấn đề thứ hai, Trung Quốc là một công xưởng
lớn, là nơi tập trung các công ty và tập đoàn lớn của thế giới, là mạng kết nối
toàn cầu. Muốn hợp tác hiệu quả với Trung Quốc, Việt Nam phải tìm cách thâm nhập
vào hệ thống kinh doanh toàn cầu, chuỗi giá trị toàn cầu, lựa chọn những ưu thế
của mình để phát triển. Giải pháp là thu hút đầu tư từ các công ty hàng đầu thế
giới.
Việt Nam cần có sự chuẩn bị để thâm nhập vào hệ thống
kinh doanh của các TNC của Trung Quốc, tham gia vào các chuỗi giá trị mang tính
khu vực và toàn cầu. Việt Nam có thể tận dụng sự dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc
và các nước trong khu vực về một số lĩnh như dệt may, da giày, điện tử, chế biến
nông sản. Tuy nhiên, yếu tố quyết định của sự tận dụng này là tăng cường thu hút
đầu tư nước ngoài, cải thiện chất lượng lao động, tạo ra sự liên kết hiệu quả giữa
các nhà sản xuất trong nước và đầu tư nước ngoài, cải cách hành chính, phát triển
cơ sở hạ tầng.
Vấn đề thứ ba, Trung Quốc có tiềm lực kinh tế
hùng mạnh, có năng lực cạnh tranh vượt trội so với Việt Nam, vì vậy cần coi Trung
Quốc là một thị trường hơn là đối thủ cạnh tranh, từ đó tranh thủ sự phát triển
và đặc thù thị trường để hợp tác kinh tế thương mại. Những lợi thế của Việt Nam
về địa kinh tế và chính trị cần được tận dụng triệt để. Hợp tác thay cho cạnh tranh,
đối đầu, phòng thủ.
Trong ngắn hạn, Việt Nam khó có thể cạnh tranh được
với Trung Quốc ở nhiều lĩnh vực, nhất là công nghệ. Nhưng với một thị trường rộng
lớn, nhiều trình độ phát triển khác nhau, sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế và thị
trường, Việt Nam có thể tiếp cận thị trường này để làm lợi cho mình. Ngược lại,
nếu coi Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh, chúng ta sẽ có tâm lý đối phó, bị động.
Chiến lược tồn tại và phát triển bên cạnh Trung Quốc
của Việt Nam cần phải được xây dựng trên tinh thần làm cho Việt Nam khác với Trung
Quốc chứ không phải làm thế nào để Việt Nam có thể cạnh tranh với Trung Quốc. Khai
thác những ưu thế của Việt Nam với tư cách là một nước nhỏ và linh hoạt. Nhiều nước
và vùng lãnh thổ nhỏ bên cạnh Trung Quốc đã thành công khi làm khác với Trung Quốc
như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan...
Chẳng hạn, chúng ta không được giống họ về mặt cấu
trúc của một nền kinh tế hàng hoá, tức là cấu trúc sản phẩm. Với một cộng đồng sản
xuất và tiêu thụ lớn như vậy chúng ta không đủ sức cạnh tranh. Nói đúng hơn đó là
đối thủ không thể cạnh tranh được. Nhiệm vụ của những người hoạch định chính sách
kinh tế Việt Nam là phải đưa ra được những chiến lược hàng hoá phù hợp, cho phép
chúng ta có thể tăng cường hợp tác với Trung Quốc, tránh hoặc giảm bớt nguy cơ đối
đầu về thương mại và dịch vụ với họ trong những lĩnh vực ta có ít ưu thế.
Vấn đề thứ tư, hợp tác với Trung Quốc cần tính
đến lợi ích thương mại với các đối tác khác. Không vì lợi ích ngắn hạn tại Trung
Quốc mà bỏ mất cơ hội ở các thị trường khác. Phải xây dựng chiến lược đối tác thương
mại lâu dài và linh hoạt.
Việt Nam luôn phải quán triệt tinh thần thị trường
Trung Quốc là một bộ phận của thị trường thế giới. Do đó phát triển quan hệ thương
mại với Trung Quốc phải tính đến quan hệ với các thị trường khác. Vấn đề này ta
chưa quan tâm đúng mức. Thực tế là, hoạt động nghiên cứu dự báo của ta về các thị
trường và mối quan hệ của chúng còn rất hạn chế, chính vì vậy ta thường bị động,
chạy theo lợi ích ngắn hạn.
Việt Nam đang có nhiều lợi thế để phát triển kinh
tế đối ngoại với Trung Quốc và các nước lớn trên thế giới. Với những cải cách kinh
tế trong những năm qua, tư cách thành viên WTO trong những năm tới, vị trí địa kinh
tế thuận lợi cho đầu tư, du lịch, thương mại, vận tải..., Việt Nam có thể trở thành
tâm điểm của sự chú ý quốc tế. Trước hết là ưu thế trong cạnh tranh thu hút FDI.
Đang có dấu hiệu dòng FDI đổ ngày càng nhiều vào Việt Nam. Trong 3 tháng đầu năm
2007, Việt Nam đã thu hút được 2,5 tỷ USD vốn FDI. Tiếp đến là ưu thế về quy mô
thị trường với thu nhập đang tăng nhanh. Cuối cùng là môi trường chính trị ổn định.
Việt Nam đang có vị trí ngày càng cao trong nền chính
trị thế giới. Uy tín của Việt Nam sẽ tạo điều kiện để đa dạng hoá mối quan hệ kinh
tế thương mại, có những lựa chọn đối tác phù hợp và hiệu quả. Tuy nhiên cũng cần
tính đến các mối quan hệ với các đối tác khác, nhất là các nước lớn, các nước láng
giềng. Trong bối cảnh gia tăng các mối quan hệ kinh tế đa phương và song phương,
cần xây dựng chiến lược đối tác thương mại trên cơ sở những phân tích và dự báo
chiến lược đúng đắn. Không quá tập trung vào một thị trường, phải có quan điểm chiến
lược dài hạn.
Vấn đề thứ năm, trong quan hệ với Trung Quốc,
Việt Nam cần tính đến lợi ích tổng thể để có sự phối hợp hành động. Chạy theo lợi
ích ngắn hạn, cục bộ sẽ bị thiệt thòi với Trung Quốc, ở vào thế bị động, đánh mất
cơ hội dài hạn.
Trong quan hệ thương mại với Trung Quốc, các doanh
nghiệp Việt Nam chưa có chiến lược kinh doanh dài hạn. Các mặt hàng xuất khẩu của
ta sang Trung Quốc là các nhóm hàng có nguồn gốc tài nguyên thiên nhiên như khoáng
sản, nông sản, thuỷ sản. Nhiều mặt hàng thuộc quản lý của Nhà nước, các nhóm hàng
phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và rất dễ biến động. Đối với nhóm hàng khoáng
sản, doanh nghiệp có tâm lý là tranh thủ để khai thác nhanh, xuất nhanh vì trữ lượng
và khả năng khai thác có hạn. Đối với nhóm hàng nông sản, thuỷ sản phụ thuộc nhiều
vào thời tiết, kỹ thuật canh tác và giá cả thất thường nên kinh doanh với thị trường
Trung Quốc tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đây cũng là một trong những lý do khiến doanh nghiệp
nước ta thường chạy theo lợi ích trước mắt. Vụ “chè vàng” hay xuất khẩu khoáng sản
thô ở các tỉnh phía Bắc trong các năm 2003, 2004, 2005 là thực tế đã chứng minh
cho điều này.
Vấn đề thứ sáu, phát triển quan hệ kinh tế với
Trung Quốc trên cơ sở đảm bảo an ninh quốc gia, chủ quyền lãnh thổ, xử lý tốt các
vấn đề tranh chấp thương mại, bảo vệ môi trường...
Trong hoạt động kinh doanh thương mại với Trung Quốc,
buôn bán tiểu ngạch qua biên giới tuy đang mang lại lợi ích kinh tế rõ rệt, nhưng
đây là hình thức thương mại cấp thấp trong thương mại quốc tế, thiếu tính ổn định
và chứa đựng trong đó những yếu tố của kinh tế ngầm, bất hợp pháp, gây ảnh hưởng
bất lợi đối với an sinh xã hội. Nạn buôn lậu hàng hoá làm tràn ngập thị trường những
hàng kém chất lượng, hàng độc hại, thậm chí cả những loại ma tuý tinh chế… gây thiệt
hại cho nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp kinh doanh thương mại nói riêng, và
từ đó có khả năng đưa đến sự bất ổn cho an ninh quốc gia. Nạn buôn bán bất hợp pháp
vận chuyển hàng hoá qua biên giới không kiểm soát được từng nơi, từng lúc, tình
trạng xuất nhập cảnh trái phép… là những hành vi xâm phạm đến cả chủ quyền quốc
gia cần phải được hạn chế và ngăn chặn.
Phát triển thương mại với Trung Quốc cũng cần tính
đến các yếu tố môi trường và phát triển bền vững. Xuất khẩu Việt Nam sang Trung
Quốc chủ yếu là tài nguyên và sản phẩm có nguồn gốc đa dạng sinh học. Nếu không
được quản lý tốt, chạy theo lợi ích trước mắt sẽ có nguy cơ suy thoái môi trường
và cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh đó, Trung Quốc phát triển nhanh (nóng)
cũng sẽ ảnh hưởng đến môi trường Việt Nam. Mở cửa biên giới, tự do hoá thương mại
theo các Hiệp định quốc tế và khu vực kéo theo việc di nhập các sản phẩm, hàng hoá
không thân thiện với môi trường và sức khoẻ con người vào nước ta.
Trong quan hệ với Trung Quốc, ta cũng cần tính đến
vấn đề tranh chấp thương mại. Với quy mô thương mại hiện nay, các tranh chấp thương
mại sẽ gia tăng, đặc biệt là các biện pháp tự vệ (theo WTO) để hạn chế hàng nhập
khẩu vào nước ta gây mất ổn định thị trường và thiệt hại cho Việt Nam.
Định hướng hợp tác trong lĩnh vực thương mại
Với phương châm là tận dụng tối đa cơ hội từ sự phát
triển của Trung Quốc để tăng kim ngạch xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, quản lý tốt
thương mại biên mậu, xử lý tốt các vấn đề tranh chấp thương mại, trao đổi thương
mại trên cơ sở quan hệ kinh doanh thương mại bình đẳng theo đúng khuôn khổ WTO,
những định hướng lớn phát triển thương mại Việt Nam với Trung Quốc trong giai đoạn
đến năm 2015 là:
a) Định hướng xuất khẩu
Định hướng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường
Trung Quốc giai đoạn 2009-2015 phải phù hợp với định hướng phát triển xuất khẩu
của Việt Nam giai đoạn 2006-2010 là "Phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng
cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP. Đẩy mạnh xuất khẩu các mặt
hàng có lợi thế cạnh tranh, đồng thời tích cực phát triển các mặt hàng khác có tiềm
năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng nâng cao hiệu quả xuất
khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng
có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế
biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng
hàng xuất khẩu thô".
Những định
hướng lớn:
- Tận dụng
cơ hội từ sự tăng trưởng của Trung Quốc, sự thiếu hụt về nguyên liệu và một số hàng
hoá khác như nông sản, thuỷ sản để tăng cường xuất khẩu sang thị trường này. Trước
hết phải củng cố và đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng chủ lực đang xuất khẩu và
đã đứng chân được tại thị trường Trung Quốc. Từng bước nâng cao chất lượng, tăng
hàm lượng chế biến, giảm xuất khẩu thô.
- Khai thác tiềm năng xuất khẩu những mặt hàng mới
theo hướng đầu tư từ các nguồn vốn trong nước và vốn FDI. Tận dụng cơ hội của mở
cửa thương mại và đầu tư để thu hút FDI, đẩy mạnh xuất khẩu, tham gia vào chuỗi
giá trị hàng hoá của khu vực. Phấn đấu tăng
tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sang Trung Quốc.
Đẩy mạnh hợp tác thương mại theo hướng hợp tác đầu tư với các doanh nghiệp Trung
Quốc.
- Nghiên cứu xây dựng các điểm tăng trưởng xuất khẩu
mới trong giai đoạn 2010-2015 và xây dựng chương trình ở cấp quốc gia để thực hiện
điểm tăng trưởng xuất khẩu này.
- Rà soát các chính sách, biện pháp hạn chế, cản trở
xuất khẩu để có phương án tháo gỡ tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu.
Trong giai đoạn 2010-2015, dự báo tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu hàng hoá sang Trung Quốc bình quân đạt mức 12%, đến năm 2010 đạt kim ngạch
xuất khẩu 5,4 tỷ USD và 9 tỷ USD vào năm 2015.
Định hướng
xuất khẩu một số nhóm hàng:
- Nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản: trong giai đoạn
trước năm 2010, kim ngạch xuất khẩu nhóm này vẫn tăng. Trong giai đoạn
2010-2015, kim ngạch xuất khẩu dầu thô và than đá sẽ giảm do chính sách chung của
ta về hạn chế xuất khẩu nhiên liệu; tuy nhiên giai đoạn này sẽ có các mặt hàng mới
như Boxit Alumina từ Lâm Đồng và Đắc Nông và quặng sắt tinh luyện tham gia xuất
khẩu sẽ làm cho kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này không sụt giảm nhiều. Thị trường
cho nhóm hàng này chính là các tỉnh giáp biên giới là Tây Nam và Quảng Đông Trung
Quốc.
- Nhóm hàng nông, lâm thuỷ sản: sẽ có xu hướng tăng
với tốc độ chậm. Tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng này trong tổng kim ngạch xuất dự kiến
sẽ tăng từ 9% (năm 2009) lên 18,5% (năm 2010) và 23,5% (năm 2015). Trong thời gian
tới, thị trường Trung Quốc vẫn tiếp tục có nhu cầu nhập khẩu rất lớn nhóm hàng này,
ta lại có tiềm năng đẩy mạnh xuất khẩu và ít chịu sức ép cạnh tranh từ Trung Quốc
hoặc nước khác. Tuy nhiên ta cũng sẽ gặp khó khăn về khả năng mở rộng quy mô nuôi,
trồng và chủ yếu phải dựa vào gia tăng hàm lượng chế biến để nâng cao giá trị xuất
khẩu. Thị trường chủ yếu cho các mặt hàng này là các tỉnh Tây và Tây Nam Trung Quốc
và các tỉnh, thành phố Đại Liên, Thanh Đảo.
- Nhóm hàng công nghiệp: do gặp thuận lợi về mở rộng
quy mô sản xuất, đồng thời nâng cao giá trị gia tăng nhờ đổi mới công nghệ (đặc
biệt thông qua hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ bắt đầu đi
vào hoạt động trong giai đoạn này) nên xuất khẩu có xu hướng tăng nhanh cả về tốc
độ tăng trưởng và tỷ trọng xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu, dự kiến tỷ
trọng chiếm khoảng từ 8,5% (năm2009) lên 18% (năm 2010) và 27% (năm 2015).
Tuy nhiên, ta cần chú trọng những mặt hàng mà Trung
Quốc gặp khó khăn về nguyên liệu nhưng có nhu cầu nhập khẩu lớn như dây điện và
dây cáp điện các loại, sản phẩm gỗ cao cấp. Thị trường chủ yếu của mặt hàng này
là các tỉnh Tây, Tây Nam và miền Đông Trung Quốc.
- Nhóm những mặt hàng mới: đây là nhóm mặt hàng tạo
nên những điểm tăng trưởng xuất khẩu mới sang Trung Quốc. Ngoài những mặt hàng khoáng
sản như Boxit Alumina, quặng sắt và những mặt hàng ta có thể phát triển từ những
mặt hàng tiềm năng của ta thì nhóm các mặt hàng được các nhà đầu tư nước ngoài sản
xuất ra là cực kỳ quan trọng. Trong đó các sản phẩm mà các nước và vùng lãnh thổ
như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, úc, Pháp, Đức hiện đang xuất khẩu vào
Trung Quốc nay có nhu cầu chuyển giao đầu tư
tại Việt Nam để sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm có chất lượng cao mà thị trường
Trung Quốc có nhu cầu nhập khẩu rất lớn như: các loại sản phẩm cao su, sản phẩm
nhựa, công nghệ viễn thông, phần mềm tin học, máy vi tính, linh kiện điện tử, nhôm
và các sản phẩm từ nhôm, giấy cao cấp, kính và gương kính cao cấp, sợi hoá học,
tân dược.
Dự kiến kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng hiện các
nước đang xuất khẩu vào Trung Quốc do FDI đầu tư sản xuất tại Việt Nam mang lại:
năm 2010 đạt khoảng 420-450 triệu USD; năm 2015 đạt khoảng 900-1000 triệu USD.
Thị trường nhóm mặt hàng này chủ yếu là các tỉnh Vân
Nam, Quảng Tây và các tỉnh miền Đông Trung Quốc.
Định hướng khu vực thị trường xuất khẩu
Định hướng xuất khẩu vào khu vực hiện có nhu cầu nhập
khẩu lớn và ta đang xuất khẩu mạnh hoặc chưa tiếp cận được vào khu vực kém phát
triển để có thể đẩy mạnh hàng xuất khẩu của ta khi mà trình độ tiêu thụ tại khu
vực miền Tây và Tây Nam Trung Quốc không đòi hỏi quá cao so với các đô thị khác
ở Trung Quốc, và cũng không cao như các thị trường khác như khu vực Âu - Mỹ. Bên
cạnh đó cần nghiên cứu xu hướng mở rộng xuất khẩu sang thị trường một số tỉnh phát
triển miền Đông Trung Quốc. Một số thị trường chủ yếu:
- Quảng Tây, Vân Nam và các tỉnh/ thành phố miền Tây
Trung Quốc (Tứ Xuyên, Trùng Khánh, Quý Châu)
- Các tỉnh miền Đông Trung Quốc như: Quảng Đông, Phúc
Kiến, Hải Nam, Thượng Hải, Bắc Kinh, Chiết Giang, Sơn Đông.
- Đại Liên, Thanh Đảo (đối với thuỷ hải sản)
b) Định hướng nhập khẩu
Trong giai đoạn 2009-2015, nhập khẩu của Việt Nam
từ thị trường Trung Quốc vẫn tăng mạnh do mở cửa thương mại và nhu cầu về nguyên
liệu, thiết bị, máy móc của ta vẫn còn lớn. Sẽ có sự chuyển giao công nghệ từ Trung
Quốc sang Việt Nam trong những ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày,
láp ráp điện tử. Dự báo, tốc độ tăng nhập khẩu vẫn ở mức cao từ nay cho đến
2015, trong đó giai đoạn 2009-2010 tăng cao hơn. Dự kiến tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu bình quân cho cả giai đoạn khoảng 12%/năm.
Định hướng chung cho từng nhóm hàng nhập khẩu từ Trung
Quốc trong giai đoạn 2007-2015 như sau:
- Nhóm hàng nguyên nhiên liệu, vật tư: Chiếm tỷ trọng
lớn khoảng 50% trong tổng kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc giai đoạn 2001-2006
và sẽ tiếp tục tăng nhưng chậm và chiếm tỷ trọng khoảng 60% trong giai đoạn
2009-2015. Do nhóm hàng này là nhóm hàng nguyên nhiên liệu thiết yếu phục vụ cho
sản xuất, tiêu dùng, phát triển kinh tế của nước ta, đồng thời là các sản phẩm mà
trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu trong
nước.
- Nhóm hàng công nghiệp: trong giai đoạn
2009-2015, Việt Nam sẽ tiếp tục nhập khẩu nhiều mặt hàng công nghiệp từ Trung Quốc
và tỷ trọng nhập khẩu nhóm hàng này trong tổng nhập khẩu từ Trung Quốc sẽ tăng từ
25% lên 30%. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là: hoá chất, phân bón, sắt thép, máy móc,
thiết bị phụ tùng, ôtô…
- Nhóm hàng
tiêu dùng: nhóm hàng này có khả năng tăng nhập khẩu và chiếm tỷ trọng từ 15% do
nhập khẩu ôtô dự báo sẽ tăng mạnh trong giai đoạn tới.
Trong giai đoạn 2009-2015, việc nhập khẩu hàng hoá
từ Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng mạnh. Do đó ta cần phải có định hướng cụ thể về hoạt
động nhập khẩu hàng hoá từ Trung Quốc để đảm bảo chất lượng hàng hoá nhập khẩu,
lành mạnh hoá thị trường nhập khẩu bằng việc xây dựng các quy chuẩn cụ thể cho các
loại hàng hoá, công nghệ, máy móc cụ thể khi nhập khẩu vào Việt Nam và giao cho
các cơ quan, đơn vị có chức năng xây dựng, quản lý các quy chuẩn này tiến hành quản
lý chặt theo các tiêu chuẩn quốc tế sẽ được xây dựng.
c) Định hướng về xử lý nhập siêu
Do nhu cầu của Việt Nam về nhập khẩu các loại hàng
hoá từ Trung Quốc còn rất lớn và cùng với việc miễn giảm thuế theo khuôn khổ ACFTA,
hàng nhập khẩu từ Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng mạnh. Trong khi đó xuất khẩu của nước
ta tăng có mức độ và các giải pháp hạn chế nhập siêu chưa thể phát huy tốt hiệu
quả thì tình hình nhập siêu từ Trung Quốc giai đoạn 2009-2015 chưa thể có sự thay
đổi lớn, thậm chí còn tăng đến 2015. Như vậy, vấn đề đặt ra là không phải tìm cách
hạn chế nhập siêu bằng mọi giá mà khống chế mức nhập siêu trong giới hạn cho phép,
tức là mức nhập siêu không ảnh hưởng lớn đến ổn định kinh tế vĩ mô như nợ nước ngoài,
cán cân thanh toán.
Cần phải có cách nhìn nhận vấn đề nhập siêu một cách
tổng thể, trên tất cả các thị trường và phân tích sâu sắc ảnh hưởng của nó đối với
tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Cân bằng cán cân thương mại là cần
thiết nhưng không phải là mục đích cuối cùng. Kinh nghiệm các nước đang công nghiệp
hoá cho thấy, nhiều nước nhập siêu với tỷ trọng lớn như Thái Lan (1992-1995), Hàn
Quốc (những năm 80 thế kỷ XX), nhưng kinh tế vẫn tăng trưởng cao và không gây bất
ổn đến kinh tế vĩ mô. Thực tế cho thấy, Việt Nam nhập siêu lớn với Trung Quốc nhưng
lại xuất siêu với các nước khác như EU và Hoa Kỳ mà phần lớn những mặt hàng có kim
ngạch cao như dệt may, da giày là những mặt hàng có đầu vào nhập khẩu từ Trung Quốc.
Như vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để nhập khẩu hiện tại thúc đẩy xuất khẩu trong
dài hạn, tức là nhập khẩu cạnh tranh. Do đó, xử lý vấn đề nhập siêu một cách chủ
động và bền vững chỉ có thể trên cơ sở đẩy
mạnh xuất khẩu và phát triển sản xuất các mặt
hàng thay thế nhập khẩu. Đồng thời
đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ, thu hút đầu tư từ Trung Quốc để bù đắp sự thâm hụt thương
mại, không gây nên những biến động bất lợi đối với kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó cần
tiếp tục hoàn thiện chính sách quản lý nhập khẩu để hạn chế nhập khẩu công nghệ,
thiết bị lạc hậu, ô nhiễm môi trường, hàng hoá chất lượng thấp.
d) Định hướng phát triển
biên mậu
Phấn đấu đến năm 2010, tiến tới lành mạnh hoá và nâng
cao hiệu quả hoạt động của biên mậu Việt - Trung để góp phần phát triển kinh tế,
thương mại của các tỉnh giáp biên giới Việt - Trung. Phấn đấu xây dựng các trung
tâm hàng hoá tại các tỉnh giáp biên giới Việt - Trung để phục vụ cho hoạt động xuất
nhập của cả nước qua biên giới Việt Nam- Trung Quốc. Cần xây dựng cơ chế điều tiết,
quản lý biên mậu linh hoạt, hiệu quả từ Trung ương đến địa phương. Phát huy tối
đa lợi thế về địa lý và điều kiện tự nhiên biên giới với Trung Quốc để phát triển
hoạt động biên mậu giữa hai nước. Phát triển biên mậu Việt - Trung theo hướng văn
minh, hiện đại, góp phần chống buôn lậu, đồng thời kết hợp với bảo vệ môi trường,
đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới. Theo đó cần
:
- Thoả thuận với phía Trung Quốc để từng bước áp dụng
các quy định, tiêu chuẩn thống nhất cho hàng hoá xuất nhập khẩu qua biên giới của
hai nước nhằm đưa hoạt động biên mậu vào nền nếp và ổn định.
- Xây dựng và nâng cấp cơ
sở hạ tầng thương mại tại các tỉnh giáp biên giới Việt – Trung như đường giao thông,
trung tâm thương mại, kho bãi, thông tin,..
- Xây dựng cơ chế điều tiết, quản lý biên mậu linh
hoạt, hiệu quả từ Trung ương đến địa phương.
- Phát huy tối đa lợi thế về địa lý và điều kiện tự
nhiên biên giới với Trung Quốc để phát triển hoạt động biên mậu giữa hai nước.
- Phát triển biên mậu Việt - Trung theo hướng văn
minh, hiện đại, góp phần chống buôn lậu, đồng thời kết hợp với bảo vệ môi trường,
đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới.
(e) Định hướng hợp tác phát triển thương mại
dịch vụ
Thương mại dịch vụ sẽ phát triển nhanh, có tốc độ tăng
trưởng cao và ổn định. Thương mại dịch vụ giai đoạn 2009-2015 sẽ phát triển mạnh
hơn so với thương mại hàng hoá. Trong nhóm dịch vụ thương mại thì dịch vụ vận tải,
kho ngoại quan và cảng biển sẽ phát triển rất nhanh, đặc biệt là du lich. Dự kiến,
hàng quá cảnh của Trung Quốc qua cảng Hải Phòng có thể sẽ lên tới 1 triệu tấn vào
năm 2010 và 5 triệu tấn vào năm 2015.
(f) Định hướng
phát triển cơ sở hạ tầng thương mại
- Tăng cường hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng cho hoạt
động thương mại như đường giao thông, các khu kinh tế cửa khẩu, nâng cấp các cảng
chu chuyển.
- Đẩy mạnh hợp tác về ngân hàng, thanh toán, kết cấu
hạ tầng về thông tin.
- Đầu tư cho công tác hải quan, kiểm định hàng hoá
xuất nhập khẩu
Một số giải pháp
- Tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý cho hợp tác thương mại với Trung Quốc: rà soát lại
những hiệp định đã ký kết giữa hai bên để có những điều chỉnh phù hợp với các cam
kết quốc tế (WTO, ACFTA), đồng thời nâng cao tính hiệu lực của các điều khoản đã
cam kết. Điều chỉnh và bổ sung các chính sách giữa Việt Nam và Trung Quốc theo hướng
tạo cơ chế mở hơn nữa cho hoạt động thương mại trên các hành lang; hoàn thiện chính
sách thuế tạo môi trường thuận lợi cho thương mại và đầu tư như áp dụng chính sách
ưu đãi tài chính đối với vùng kinh tế cửa khẩu, cải thiện hệ thống thanh toán, tăng
cường sự phối hợp trao đổi định kỳ các biện pháp quản lý và giám sát buôn bán biên
giới.
- Tranh thủ vị thế thuận lợi có được sau khi gia nhập WTO và bối cảnh hội
nhập khu vực để thu hút đầu tư nước ngoài
để phát triển xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Đây là giải pháp quan trọng
nhất để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu và cải thiện cán cân thương
mại với Trung Quốc. Trước hết cải thiện môi trường đầu tư để thu hút FDI từ các
công ty xuyên quốc gia vào các lĩnh vực công nghệ cao, cơ sở hạ tầng và công nghiệp
chế biến. Tuy nhiên, Việt Nam cần có chính sách để kiểm soát việc nhập khẩu công
nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường.
- Chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu để tận dụng
lợi thế cạnh tranh trong quan hệ thương mại với Trung Quốc. Nỗ lực chuyển dịch cơ cấu công nghiệp, nhanh chóng xác lập lợi thế so sánh
trong những ngành liên quan đến máy móc. Phát huy lợi thế so sánh để khai thác khu vực thị trường mở ASEAN - Trung
Quốc. Củng cố, đẩy mạnh xuất khẩu những
mặt hàng chủ lực đang xuất khẩu và đã đứng chân được tại thị trường Trung Quốc,
tiếp tục nghiên cứu mở rộng mặt hàng để có đầu tư dài hạn..
- Mở rộng các hình thức hợp tác
thúc đẩy phát triển thương mại với Trung Quốc như đẩy mạnh hợp tác xây
dựng cửa khẩu và đường thông thương, tăng cường hợp tác
kỹ thuật và đầu tư, du lịch, hợp tác xây dựng “Hai hành lang một vành đai kinh tế”, kết hợp phát triển mậu dịch biên giới với hợp tác kinh tế, tăng cường hợp tác chống buôn lậu và gian lận thương mại, hợp tác về đào tạo
nguồn nhân lực,...
- Đổi mới phương thức hoạt động thương mại, đẩy mạnh
xúc tiến thương mại và đầu tư, phát triển các dịch vụ hỗ trợ phát triển thương mại,
nghiên cứu các điều kiện về khả năng thực hiện Hiệp định thương mại tự do song phuơng
với Trung Quốc (FTA), xây dựng chiến lược đối tác thương mại của Việt Nam với các
quốc gia có nền kinh tế lớn và các nước trong khu vực.
- Chiến lược Vịnh Bắc Bộ mở rộng được kết cấu thành
hai mảng lớn: a- Hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng (quan trọng nhất) ; b- Tiểu vùng sông
Mê kông với một trục ở giữa là hành lang kinh tế Nam Ninh- Xinhgapo được Trung Quốc
gọi tắt là chiến lược Một trục hai cánh – theo mô hình chữ M – viết theo tiếng Anh
( được hiểu là tổ hợp hợp tác kinh tế trên biển, hợp tác kinh tế trên đất liền và
hợp tác Tiểu vùng sông Mê-kông) được xem là sự phát triển lôgíc, sự phát triển mở
rộng của ý tưởng Hai hành lang một vành đai do Việt Nam khởi xướng. Trong thời gian
tới, Việt Nam và Trung Quốc cần xúc tiến triển khai và đẩy nhanh việc tổ chức, thực hiện nhiệm vụ xây dựng
Hai hành lang một vành đai - hạt nhân- nơi thể nghiệm, thực thi
thể chế hợp tác của chiến lược “Một trục hai cánh”
Phát triển, mở rộng hợp tác với các quốc gia và vùng
lãnh thổ, củng cố, nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả 3 phạm vi: quốc gia – doanh
nghiệp – sản phẩm, thực thi tự do hoá thương mại với những bước đi và tốc độ phù
hợp với hoàn cảnh cụ thể của mình… tăng cưòng quan hệ kinh tế, thương mại Việt-
Trung – một định hướng chiến lược trong thế kỷ XXI, có thể nói đó chính là “kim
chỉ nam” để Việt Nam có thể rút ngắn con đường phát triển của mình mà lịch sử thế
giới phải trải qua hàng trăm năm mới có. Đây cũng có thể xem là “lối mở ” hợp quy
luật đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.