Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu giới thiệu về
kho tư liệu hơn 1000 bản đồ các loại
khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam
Tiếp cận từ khía cạnh các tư liệu bản đồ, được tiến
hành đo đạc, xác lập từ thế kỷ thứ XV (có thể lâu hơn nữa) đã cho thấy
một lát cắt hoàn chỉnh về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa. Những chứng cứ này đã biến yêu sách "đường lưỡi
bò” của Trung Quốc trở nên vô lý đối với các nước ven biển ASEAN và cộng
đồng quốc tế yêu hòa bình, công lý.
Với khoảng hơn 1000 bản đồ lớn nhỏ, dài rộng khác
nhau của các học giả trên khắp thế giới, kể cả các học giả người Trung
Quốc, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu khẳng định, đây là những tài liệu
rất quan trọng để Chính phủ sử dụng trong trường hợp một Tòa án quốc tế
có thẩm quyền được lập để giải quyết vấn đề phức tạp tại Biển Đông hiện
nay.
Chủ quyền biển đảo Việt Nam được xác lập từ thế kỷ XV
Trong kho tư liệu bản đồ mà nhà nghiên cứu Nguyễn
Đình Đầu cung cấp, có một bản đồ cổ hiếm hoi được ghi nhận ra đời từ thế
kỷ thứ XV. "Thực ra có thể có nhiều tấm bản đồ cổ hơn nữa nhưng trải
qua thời gian, chiến tranh và biến cố của thời cuộc nên hầu hết đã bị
thất lạc” - ông Nguyễn Đình Đầu cho biết.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, từ khi Việt Nam
giành được quyền tự chủ vào năm 939, bản thân chính quyền và các học giả
Trung Hoa khi đó đã bắt đầu vẽ bản đồ nước ta, song chủ yếu là phần đất
liền. Phải đến các thế kỷ sau đó, Biển Đông và các hải đảo của Việt Nam
mới bắt đầu được mô tả trên bản đồ. Theo các tài liệu thu thập được,
hiện còn 3 tập bản đồ thể hiện khá rõ chủ quyền lãnh hải và đất liền của
Việt Nam, gồm: Bản đồ Giao Chỉ Quốc – Giao Chỉ Dương (trích từ bản đồ
Võ Bị Chí được vẽ từ khoảng thế kỷ XV); Bản đồ diên cách Việt Nam Đông
Đô – Việt Nam Tây Đô với Đông Dương Đại Hải của Ngụy Nguyên (khoảng năm
1842) và Bản đồ An Nam Quốc với Đông Nam Hải.
Trong số các bản đồ này thì tập bản đồ Võ Bị Chí có
thể hiện một bán đảo lớn, đề rõ Giao Chỉ Quốc, trong đó phía Đông là
biển cả được ghi rõ Giao Chỉ Dương. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu,
vào giai đoạn này nước ta tự xưng tên gọi là Đại Việt, Trung Quốc gọi
là An Nam Quốc. Tuy Võ Bị Chí vẫn gọi nước ta theo tên Giao Chỉ cổ đại
nhưng cũng đã tỏ ra tôn trọng chủ quyền của nước ta ở trên lục địa lẫn
Biển Đông.
Sau này, Ngụy Nguyên ghi vẽ lại bản đồ diên cách Việt
Nam khá chính xác gồm: Việt Nam Đông Đô (tức Đàng Ngoài) và Việt Nam
Tây Đô (tức Đàng Trong). Ở ngoài khơi Việt Nam Đông Đô là quần đảo Vạn
Lý Trường Sa tức quần đảo Hoàng Sa ngày nay. Ngoài khơi thuộc Việt Nam
Tây Đô là quần đảo Thiên Lý Thạch Đường, tức Trường Sa. Ngoài khơi biển
cả được ghi rõ là Đông Dương Đại Hải.
Ngoài ra, trên bản đồ An Nam Quốc, Ngụy Nguyên cũng
đã ghi lại nhiều địa danh các vương quốc phụ thuộc làm cho ranh giới
chiếm phần lớn bên hữu ngạn sông Mê Kông, nay thuộc Thái Lan. Ngoài Biển
Đông, Ngụy Nguyên ghi rõ là Đông Nam Hải, chứng tỏ chủ quyền của Việt
Nam trên lục địa và biển cả là rộng lớn và được tôn trọng hiển nhiên.
Trong các văn bản chính thống, Lê Quý Đôn và Phan Huy
Chú đã chứng minh chủ quyền và quá trình khai thác và làm chủ các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Trong sách Phủ Biên Tạp Lục
(1777), Lê Quý Đôn viết: "Xã An Vĩnh thuộc huyện Bình Sơn, phủ Quảng
Ngãi ở gần bãi biển. Về hướng đông bắc có nhiều đảo và nhiều núi linh
tinh hơn 130 đỉnh... ở trong các hòn đảo có bến Cát Vàng, chiều dài ước
chừng hơn 30 dặm... những thuyền lớn đi biển thường khi gặp gió bão đều
đến nương đậu ở đảo này. Họ Nguyễn còn thiết lập đội Hoàng Sa gồm 70
suất, lấy người ở xã An Vĩnh bổ sung... một đội Bắc Hải chèo thuyền ra
cù lao Côn Lôn... hoặc đi đến các xứ Cồn Tự vùng Hà Tiên để tìm kiếm”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu cũng lưu giữ được
hai bản đồ quý từ thế kỷ XV - XVII, gồm An Nam Quốc (Hồng Đức 1490) và
Vương quốc An Nam (Alexandre de Rhodes, 1650) cũng biểu hiện khá rõ thềm
lục địa, Biển Đông và hải đảo Việt Nam đương thời. Sau này vào thời Gia
Long, là thời kỳ đầu tiên thống nhất nước ta từ ngoại giao đến nội trị,
từ quốc phòng đến hành chính, từ khai thác hầm mỏ đến bảo vệ hải đảo.
Đây là giai đoạn mà các tài liệu được ghi chép hết sức tỉ mỉ về các quần
đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. Riêng về ghi chép bản
đồ, thời kỳ này có hai bản đồ An Nam Đại Quốc Họa Đồ (Taberd 1838) và
Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ (1840) thể hiện khá đầy đủ tình hình thềm lục
địa, Biển Đông và hải đảo Việt Nam.
Một bản đồ được ghi chép bằng tiếng Hán
thể hiện chủ quyền biển đảo của Việt Nam
Phương Tây xác định chủ quyền các quần đảo là của Việt Nam
Từ thế kỷ thứ XIX, song song với quá trình xâm chiếm
các thuộc địa, nhiều nước Phương Tây tiến hành đo vẽ bản đồ thế giới gồm
cả 5 châu lục, trong đó có thể hiện tên nước Giao Chỉ, với các cách
phiên âm rất khác nhau, như: Cochi, Cauchi, Cauci, Quachym, Cochin... Do
có kỹ thuật hiện đại về đo đạc nên có thể coi các tài liệu của Phương
Tây về chủ quyền các đảo, quần đảo tại Biển Đông thời kỳ này là tương
đối chính xác.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, từ thế kỷ thứ
XVI, nước Đại Việt cùng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được
Phương Tây trích dẫn trên hầu hết các bản đồ thế giới hoặc khu vực Đông
Á. Riêng Alexandre de Rhodes 1650; Công ty Đông Ấn La Haye năm 1658 và
Taberd năm 1838 đã vẽ riêng bản đồ Việt Nam.
Theo ông Nguyễn Đình Đầu, trong số hàng trăm bản đồ
do Phương Tây thực hiện, hầu hết đều ghi rõ đất nước Việt Nam với các
hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ gọi tên chung là Paracel hay Pracel.
Bờ biển Prasel là ở Trung Bộ Việt Nam. "Không một bản đồ nào ghi bờ
biển Prasel ở Nam Trung Hoa hay Phi Luật Tân, Indonesia hoặc Mã Lai.
Thật hiển nhiên, khắp thế giới đều công nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc
chủ quyền Việt Nam” - nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu nhấn mạnh.
Với 50 bản đồ mô tả nước Việt Nam với thềm lục địa và
Biển Đông ấn hành suốt từ 1525 đến 1886, chúng ta thấy dần dần sự hiểu
biết của thế giới về đất nước Việt Nam ngày một chính xác, cả về hình
thể, lẫn địa danh (trong đó, gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa).
Việt Nam có thềm lục địa trải rộng 28 tỉnh, thành ven biển
Ngoài các chứng cứ đo vẽ về chủ quyền trên các đảo và
quần đảo của Việt Nam, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu khẳng định thêm,
các bản đồ cổ thực hiện từ hàng trăm năm nay đều ghi nhận 28 tỉnh, thành
nước ta có thềm lục địa giáp với Biển Đông, trong đó quần đảo Trường Sa
thuộc quản lý hành chính của tỉnh Khánh Hòa và quần đảo Hoàng Sa thuộc
quyền quản lý của thành phố Đà Nẵng (huyện đảo Hoàng Sa). Tổng cộng,
nước ta có phần lãnh hải rộng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất
liền.
Công lao lớn thuộc về người Pháp khi họ trao nhiệm vụ
cho hải quân đo đạc và thực hiện vẽ bản đồ một cách chính xác từ bờ
biển cho đến các hải đảo nổi trên mặt nước; đo chính xác độ sâu trung
bình gần như khắp biển Đông. "Đó thực sự là một kỳ công của người Pháp” -
ông Nguyễn Đình Đầu đánh giá.
Các bản đồ do người Pháp đo vẽ có rất nhiều kích cỡ,
khu vực cụ thể, tuy nhiên có thể tạm chia làm 3 loại: Trường Sa, Hoàng
Sa; Thềm lục địa và hải đảo; Thềm lục địa, hải đảo và Biển Đông. Trong
số này, bản đồ quần đảo Hoàng Sa (52x66cm) do Nha Thủy bộ Hải quân Pháp
đo vẽ năm 1885; bản đồ chi tiết các đảo Pattle (Hoàng Sa); Boisée (Phú
Lâm); Robert (Hữu Nhật) thuộc quần đảo Hoàng Sa; các đảo Caye du S.W.
(Song Tử Tây); Caye de I'Alerte (Song Tử Đông), Thi Tu (Thị Tứ), đảo
Loai Ta (Loại Ta), Itu Aba (Ba Đình), Namvit (Nam Yết),...
Như vậy, tiếp cận từ khía cạnh các tư liệu bản đồ,
được tiến hành đo đạc, xác lập từ thế kỷ thứ XV (có thể lâu hơn nữa) đã
cho thấy một lát cắt hoàn chỉnh về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần
đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Những chứng cứ này đã cho thấy yêu sách
"đường lưỡi bò” của Trung Quốc là vô lý đối với các nước ven biển ASEAN
và cộng đồng quốc tế yêu hòa bình, công lý.
Nhóm PV Biển Đông