TS. Nguyễn Thanh Minh
Bộ Tư lệnh Cảnh sát Biển –
Bộ Quốc phòng
Đặt vấn đề
Chủ quyền của Việt Nam
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là không thể tranh cãi, dựa trên các
yếu tố cấu thành chủ quyền của một quốc gia về lãnh thổ đó là khẳng định chủ
quyền về mặt nhà nước và sự đương nhiên thừa nhận trong tập quán quốc tế. Việt
Nam là quốc gia duy nhất có những dữ kiện địa lý, bằng chứng lịch sử, cơ sở pháp
lý quốc gia và quốc tế để xác lập chủ quyền và
khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nội
dung chính sách về biển của Nhà nước Việt Nam trong quá trình xác lập chủ
quyền về mặt nhà nước đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa luôn phù hợp
với hệ thống quy phạm pháp lý quốc tế về xác lập chủ quyền đối với một vùng
lãnh thổ.
Đó là một quốc gia khi xác
lập chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ phải thể hiện đầy đủ tính chất về mặt
nhà nước, tức là nhà nước đó có ban hành văn bản, chính sách và tổ chức quản lý
hành chính vùng lãnh thổ đó hay không khi nó chưa thuộc chủ quyền của bất kỳ một
quốc gia hay vùng lãnh thổ nào, đồng thời cách thức xác lập chủ quyền phải được
thực hiện bởi tổ chức hành chính trực thuộc nhà nước. Xét về khía cạnh này,
Việt Nam là quốc gia duy nhất trong khu vực Biển Đông đáp ứng đầy đủ tính chất
về xác lập chủ quyền và khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa về mặt nhà nước.
1. Quá trình xác lập chủ quyền
Quá trình hoạch định và
triển khai chính sách về biển của Nhà nước Việt Nam qua các triều đại phong
kiến đã được thể hiện rõ nét trong suốt mọi giai đoạn lịch sử, nội dung đó đã
hình thành và liên tục được kế thừa phát triển qua các thể chế nhà nước. Đặc
biệt, trong chính sách về biển đảo có nội dung khẳng định chủ quyền của Nhà
nước Việt Nam
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những chứng lịch sử đã chứng minh
quá trình xác lập chủ quyền đối với toàn bộ vùng biển đảo của Nhà nước Việt
Nam, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những nội dung
cơ bản của chính sách về biển đối với các Nhà nước phong kiến Việt Nam.
Trong suốt chiều dài lịch
sử phát triển của đất nước, chủ quyền của Nhà nước Việt Nam trên các vùng biển
đảo và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong khu vực Biển Đông luôn được xác
định rõ ràng, nội dung này được thể hiện qua những nội dung cơ bản của quá
trình hoạch định và thực thi chính sách về biển của Nhà nước Việt Nam, điều này
hoàn toàn phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế về xác lập chủ
quyền đối với những vùng lãnh thổ vô chủ đương thời.
Việt Nam trong thời
kỳ Lê - Trịnh (1592 - 1788), đã chứng kiến sự mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam của nhà
Nguyễn ở Đàng Trong. Từ khi chúa Nguyễn Hoàng (1558 -1613), đặt nền móng cho sự
mở rộng bờ cõi mà đến đỉnh cao là chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635), vị
chúa của những kỳ công mở cõi đầu thế kỷ XVII. Trong thời kỳ này, chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được xác lập và đi vào
quản lý, khai thác một cách đồng bộ vừa mang tính dân sự vừa mang tính quân sự.
Tuy nhiên, do vấn đề lịch sử để lại, bởi vậy, chủ quyền của Nhà nước Việt Nam
trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông đã bị một số quốc gia
trong khu vực bất chấp những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nội
dung của Hiến chương Liên hợp quốc cũng như những quy định của Luật Biển quốc
tế đã xâm chiếm trái phép hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa và một số đảo đá thuộc quần
đảo Trường Sa của Nhà nước Việt Nam. Điều này, đã dẫn đến hệ quả là cuộc đấu
tranh trên các phương diện bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý quốc tế, luật
pháp quốc gia và phương diện ngoại giao nhằm khẳng định chủ quyền của Nhà nước Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là cuộc đấu tranh lâu dài nhưng
oanh liệt, khó khăn và rất phức tạp.
Tiếp cận cơ sở pháp lý
quốc tế từ kết quả phân tích nội dung chính của một số hội nghị quốc tế diễn ra
trong thế kỷ XX, đã đương nhiên thừa nhận chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hướng nghiên cứu mới. Những nội dung
cơ bản được quy định trong các hội nghị quốc tế có thể được xem là một trong
những cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng để Nhà nước Việt Nam làm căn cứ phục vụ
cho cuộc đấu tranh trường kỳ để khẳng định chủ quyền của mình, buộc các bên hữu
quan có yêu sách phi lý về chủ quyền trao trả quần đảo Hoàng Sa và một số điểm
đảo đá, bãi ngầm, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa cho Việt Nam theo luật pháp
quốc tế, bằng biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ.
2. Tuyên bố Cairo
Năm 1943, bối cảnh
chung của thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, các mối quan hệ quốc tế liên
tiếp diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, song mục đích chính của các nước
lớn là tranh giành phạm vi ảnh hưởng và phân chia lại biên giới lãnh thổ sau
khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Bên cạnh đó, cuộc chiến tranh thế
giới lần thứ hai đã bước vào giai đoạn khốc liệt nhất. Để xem xét một số vấn đề
quan trọng của thế giới có liên quan đến biên giới lãnh thổ, đại diện ba nước
Anh, Mỹ và Trung Quốc (Cộng hòa Trung Hoa) đã nhóm họp tại Cairo, thủ đô của Ai
Cập ngày 27/11/1943, mà lịch sử gọi là Hội nghị tam cường Anh - Mỹ - Trung. Hội
nghị kết thúc đã đưa ra được Tuyên bố chung, trong tuyên bố có đoạn viết: “Nhật
Bản phải bị loại ra khỏi tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật đã cướp hoặc
chiếm đóng từ khi bắt đầu cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất năm 1914, và
tất cả những lãnh thổ Nhật đã chiếm của Trung Quốc như Mãn Châu Lý, Đài Loan và
Bành Hồ sẽ được trả lại cho Cộng hòa Trung Hoa” [5]. Ở đây chúng ta xem xét chủ
quyền của Nhà nước Việt Nam
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên hai khía cạnh cơ bản:
Thứ nhất, vấn đề lãnh
thổ của Trung Quốc, Tuyên bố Cairo đã khẳng định ý chí của các cường quốc buộc
Nhật Bản phải trao trả lại cho Cộng hòa Trung Hoa các lãnh thổ mà Nhật Bản đã
chiếm của Trung Quốc bao gồm: Mãn Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ, không có gì
liên quan đến chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bởi vì chủ
quyền đó đã thuộc về Nhà nước Việt Nam từ lâu.
Thứ hai, Tuyên bố Cairo đã không đề cập đến
chủ quyền của quốc gia nào đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tại sao
vậy? Bởi vì, hai quần đảo này đã thuộc chủ quyền của Nhà nước Việt Nam từ lâu, ít
nhất là từ thế kỷ XVII đã có những chứng cứ lịch sử chứng minh chủ quyền thuộc
về Nhà nước Việt Nam.
Chính vì vậy, những người đứng đầu của hội nghị đã không đề cập đến chủ quyền
lãnh thổ của Hoàng Sa và Trường Sa là lẽ đương nhiên.
Tựu trung lại, nội
dung của Tuyên bố Cairo năm 1943, được xem là một trong những điều ước quốc tế quan
trọng để hợp thành hệ thống cơ sở pháp lý quốc tế nhằm khẳng định chủ quyền của
Nhà nước Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đồng thời là một
trong những căn cứ pháp lý quốc tế quan trọng để Nhà nước Việt Nam vận dụng,
nhằm bác bỏ những luận thuyết sai trái về hiện thực khách quan. Đồng thời phản
đối sự khẳng định chủ quyền phi lý của Trung Quốc và một số quốc gia hữu quan
trong khu vực Biển Đông đã xâm chiếm trái phép hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa và một
số đảo đá thuộc quần đảo Trường Sa của Nhà nước Việt Nam.
3. Hội nghị Postdam
Vào năm 1945, cuộc
chiến tranh thế giới lần thứ hai dần dần đi vào kết thúc, thế giới có nhiều
việc phải làm đối với các cường quốc thắng trận như vấn đề lãnh thổ, phân chia
phạm vi ảnh hưởng v.v... Sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc ở mặt trận châu Âu,
tháng 7/1945, đại diện ba nước lớn là Anh, Mỹ và Liên Xô đã tổ chức nhóm họp
tại Postdam của Đức, nội dung chính của cuộc họp là để thảo luận về tương lai
chính trị, đặc biệt về vấn đề tổ chức tuyển cử tại các nước Đông Âu và Trung
Âu. Hội nghị Postdam đã ra Tuyên bố chung ngày 26/7/1945, nội dung của Tuyên bố còn ấn định thể
thức giải giáp quân đội Nhật Bản sau khi chiến tranh Thái Bình Dương kết thúc.
Đối với Việt Nam, để
giải giáp quân đội Nhật, ba nước Anh - Mỹ - Liên Xô đã quyết định chia Việt Nam
thành 2 khu vực từ vĩ tuyến 16, theo đó quân đội Trung Hoa có nghĩa vụ giải
giáp và hồi hương quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 ra Bắc và quân đội Anh được ủy
nhiệm giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam.
Theo tuyên bố Postdam,
phía Trung Quốc do phái đoàn Cộng hòa Trung Hoa (Quốc dân đảng) có nghĩa vụ
giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 ra Bắc, trong đó có quần đảo Hoàng Sa
của Việt Nam tọa lạc tại vĩ tuyến 16: Nhóm Lưỡi Liềm phía Tây Nam tại vĩ độ 16030’N
và nhóm An Vĩnh phía Đông Bắc tại vĩ độ 16050’N. Trong
khi đó, quân đội Hoàng gia Anh có nghĩa vụ giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến
16 trở vào Nam, kể cả quần đảo Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến từ 120
đến 70 N, tính từ Cam Ranh xuống tỉnh Cà Mau. Nhiệm vụ đã được quy
định rõ ràng trong nội dung của tuyên bố Postdam, đó là lực lượng của các nước
Cộng hòa Trung Hoa và Anh thay mặt Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, chứ không
phải tiếp thu hay chiếm hữu lãnh thổ của quốc gia đến làm nhiệm vụ. Xét về tính
chất đóng vai trò quan trọng, đó là nhiệm vụ đã được quy định rất rõ ràng trong
bản tuyên bố chính là giải giáp quân Nhật chứ không phải đến xâm chiếm Việt Nam,
đồng thời thực tế này cho thấy, các nước Đồng minh đã mặc nhiên thừa nhận hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ của Nhà nước Việt Nam là lẽ đương
nhiên.
Tháng 8/1945, quân đội
Trung Hoa Quốc dân đảng vào miền Bắc để tiến hành việc giải giáp quân Nhật ở
đây. Sau một thời gian, Trung Quốc đã ký với Pháp bản Hiệp ước Trùng Khánh vào
ngày 28/2/1946.
Theo nội dung chính của Hiệp ước thì “Pháp khước từ trị ngoại pháp quyền và các
quyền liên hệ khác tại Trung Hoa” điều thể hiện rõ nét là Pháp trả Trung Quốc
các tô giới tại Thượng Hải và Quảng Châu Loan. Đổi lại Trung Quốc đồng ý để
quân đội Pháp vào bắc vĩ tuyến 16 thay thế quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng để
thực hiện nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Ngay sau thời điểm đó, Chính phủ
Pháp đã ký với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hiệp định Sơ bộ vào ngày
6/3/1946, xoay quanh vấn đề nước Pháp thừa nhận Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa là một Quốc gia tự do và tự trị nằm trong Liên bang Đông Dương và trong Khối
Liên hiệp Pháp và quân đội Pháp sẽ ra miền Bắc của Việt Nam để thay thế quân
Tưởng.
4. Hội nghị hòa bình San
Francisco
Hội nghị San Francisco
được tổ chức từ ngày 4 - 8/9/1951, có đại diện 51 nước tham dự để bàn về việc
ký hòa ước hòa bình với Nhật Bản. Đầu tháng 9/1951, theo lời mời của Chính phủ
Mỹ, 51 quốc gia trước kia đã từng tham gia hay có liên hệ tới cuộc chiến chống
xâm lược Nhật Bản từ năm 1939 đến năm 1945 đã tham dự Hội nghị hòa bình nhóm
họp tại thành phố San Francisco của Mỹ để thảo luận vấn đề chấm dứt tình trạng
chiến tranh và tái lập bang giao với Nhật Bản. Phái đoàn Quốc gia Việt Nam đại diện
cho Nhà nước Việt Nam do Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu thuộc Chính
phủ Bảo Đại làm trưởng đoàn cũng được mời tham gia hội nghị. Tuy nhiên, Trung
Quốc và vùng lãnh thổ Đài Loan đều không được mời tham dự Hội nghị. Trong Hội
nghị này, nội dung chính là thảo luận bản dự thảo hòa ước do hai nước Anh và Mỹ
đề nghị ngày 12/7/1951.
Ngày 8/9/1951, các nước tham dự Hội nghị đã ký hòa ước với Nhật Bản, ngoại trừ ba
nước còn lại là Liên Xô, Ba Lan và Tiệp Khắc đã không ký.
Mỹ đã gạt Trung Quốc ra
ngoài Hội nghị, chính vì vậy, các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngay từ cuối năm 1950
đã có phản ứng gay gắt. Một mặt Chính phủ Trung Quốc đã ra một số tuyên bố
chính thức, mặt khác họ cho đăng các bài báo để lên án việc không mời Trung
Quốc tham dự Hội nghị và để trình bày quan điểm của Trung Quốc về một số vấn đề
cần phải được thảo luận, trong đó có vấn đề chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Ngày 5/9/1951, trong
phiên họp toàn thể thứ hai của hội nghị San Francisco, đại biểu Liên Xô là Andrei
A. Gromyko sau khi chỉ trích cách bất hợp pháp và sự vô nghĩa của bản dự thảo
hòa ước của Anh. Trên thực tế không chỉ riêng Anh mà Mỹ cũng đưa ra những ý
kiến bất hợp lý. Đó là, Mỹ đã đưa ra một đề nghị 7 điểm gọi là để hướng dẫn
việc ký kết hòa ước thực sự với Nhật Bản. Trong đó, có điểm thứ 6 đề nghị trao
trả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lãnh thổ của Việt Nam cho Trung Quốc.
Tuy nhiên, Hội nghị đã bác bỏ yêu cầu này với 48 phiếu chống. Các quốc gia tham
dự hội nghị đã bỏ phiếu chống là rất cao, số phiếu chống là 48/51 phiếu. Bởi vì,
chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã thuộc về Nhà nước Việt Nam
từ lâu, không phải chỉ đến thời điểm Hội nghị này mới đưa ra thảo luận vấn đề
chủ quyền. Ngoài ra, các quốc gia tham dự Hội nghị không có cơ sở pháp lý gì để
nhất trí theo điểm 7 của Mỹ đưa ra.
Tại Hội nghị hòa bình
San Francisco năm 1951, phái đoàn Quốc gia Việt Nam tham gia Hội nghị đã ra
tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 7/9/1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu,
trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam, đã ra tuyên bố xác định chủ quyền của Nhà
nước Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước 51 phái đoàn ngoại
giao của các nước thành viên Liên hợp quốc: “Và để tận dụng không ngần ngại mọi
cơ hội để dập tắt những mầm mống bất hòa, chúng tôi khẳng định chủ quyền của
chúng tôi trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ xưa đến nay vẫn thuộc
cương vực Việt Nam”. Lời tuyên bố đó đã được Hội nghị San Francisco ghi vào
biên bản và trong tất cả 51 phái đoàn tham dự hội nghị, không có một phái đoàn
nào phản đối thể hiện bằng văn bản. Không có bất cứ một đại diện nào của 51
quốc gia tham dự Hội nghị có ý kiến phản đối hoặc bảo lưu đối với tuyên bố trên
của đại diện Việt Nam tại Hội nghị San Francisco.
Về khía cạnh pháp lý,
với sự công bố khẳng định chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa trước 50 quốc gia thành viên Liên hợp quốc tham dự hội
nghị San Francisco năm 1951, cho thấy: Từ
năm 1951 các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được các quốc gia trên thế giới đương
nhiên thừa nhận là lãnh thổ thuộc chủ quyền của Nhà nước Việt Nam trong một Hội
nghị quốc tế có sự tham gia của 50 quốc gia thành viên của tổ chức quốc tế là
Liên hợp quốc. Sự kiện 92% các quốc
gia thành viên Liên hợp quốc thừa nhận chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có giá trị tuyệt đối phù hợp với luật pháp
quốc tế, buộc các quốc gia khác phải thừa nhận, kể cả đối với những quốc gia và
vùng lãnh thổ không tham dự Hội nghị như Trung Quốc và vùng lãnh thổ Đài Loan.
Việc hòa ước San
Francisco tách riêng Đài Loan, Bành Hồ và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
thành hai khoản riêng biệt (b, f) tự nó đã bao hàm ý nghĩa không công nhận chủ
quyền của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc. Tại khoản f
quy định: “Nhật Bản từ bỏ tất cả các
quyền, tước hiệu và đòi hỏi đối với quần đảo Trường Sa (Spratly) và Hoàng Sa
(Paracel)”.
Như vậy, việc phái đoàn
Quốc gia Việt Nam tham gia Hội nghị San Francisco tháng 9/1951 và ra tuyên bố
chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là sự kiện có ý nghĩa quan
trọng, nhằm chứng minh về sự xác lập chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa của Nhà nước Việt Nam. Đây được xem là cơ sở pháp lý quan trọng để
Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền ở hai quần đảo này ra các hội nghị quốc
tế và khu vực, tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, cũng có thể đưa vào hồ sơ
pháp lý để đấu tranh với các bên có yêu sách chủ quyền tại tòa án quốc tế.
Kết luận
Nghiên cứu những tư
liệu và chứng cứ nêu trên cho thấy, rõ ràng là những văn kiện pháp lý quốc tế
từ Tuyên bố Cairo ngày 27/11/1943 và Tuyên ngôn Hội nghị Potsdam ngày 26/7/1945
khẳng định lại nội dung Tuyên bố Cairo cho đến Hòa ước San Francisco ký ngày 8/9/1951
đã không xác nhận chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào khác đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Nhà nước Việt Nam. Đồng thời việc
không một quốc gia nào tại Hội nghị San Francisco được tổ chức vào năm 1951
phản đối hoặc bảo lưu về tuyên bố của Trưởng Đoàn đại biểu Nhà nước Việt Nam
lúc đó về khẳng định chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa, điều này chứng tỏ cộng đồng quốc tế đã mặc nhiên công nhận chủ
quyền của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Như vậy, các vùng lãnh
thổ mà Tuyên bố Cairo xác nhận và Hòa ước San Francisco khẳng định lại là của
Trung Quốc chỉ bao gồm Đài Loan và Bành Hồ. Việc Hòa ước San Francisco tách
riêng Đài Loan, Bành Hồ và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thành hai khoản
riêng biệt (b, f) tự nó đã bao hàm ý nghĩa không công nhận chủ quyền của hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc.
Ngoài ra, Hội nghị
Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương là văn bản pháp lý quốc tế ghi nhận các nước
tham dự Hội nghị trong đó có phái đoàn của Trung Quốc đã cam kết tôn trọng độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Nhà nước Việt trong đó có
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Xuyên suốt các hội nghị
quốc tế diễn ra trong thế kỷ XX, từ Tuyên bố Cairo cho đến Hội nghị San
Francisco và Hội nghị Giơnevơ năm 1954 đều đã thừa nhận chủ quyền của Nhà nước Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sự thừa nhận chủ quyền thuộc về
Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ 51 nước thành
viên của tổ chức Liên hợp quốc là cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng và sinh động,
nhằm khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của Nhà nước Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Rõ ràng, việc phái đoàn Việt Nam đưa ra quyên
bố tái khẳng định chủ quyền của Nhà nước đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa là sự kiện hết sức quan trọng và có ý nghĩa lịch sử sâu xa. Đây được
xem là cơ sở pháp lý để Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền ở Trường Sa và
Hoàng Sa tại các hội nghị, diễn đàn quốc tế và khu vực cũng như đưa vào hồ sơ
pháp lý để đấu tranh với các bên có yêu sách tại tòa án quốc tế.
Việt Nam cũng là quốc
gia duy nhất trong khu vực và trên thế giới có cơ sở pháp lý quốc tế từ các hội
nghị quốc tế để tiếp tục đấu tranh khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, tiến tới buộc các bên hữu quan có yêu sách chủ quyền đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phải tiến hành trao trả lại cho Nhà nước
Việt Nam đúng theo quy định của luật pháp quốc tế. /.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Xem thêm Nguyễn Thanh Minh (2011), Quy
chế pháp lý quốc tế đối với các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền,
quyền tài phán quốc gia ven biển từ lý luận đến thực tiển, Tạp chí Nghiên
cứu Trung Quốc, số 10 (122) , tr 24 - 32.
2. Nguyễn Thanh Minh (2012), Về yêu
sách đường cơ sở thẳng của Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 2
(126) , tr 31 - 40.
3. Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam của các tác giả Nguyễn Nhã, Nguyễn
Đình Đầu, Lê Minh Nghĩa, Từ Đặng Minh Thu, Vũ Quang Việt, Nxb. Trẻ & Saigon
Times Fuondation hợp tác xuất bản, 2008.
4. Bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam,
nhiều tác giả, Nxb. Trẻ & Saigon Times Fuondation hợp tác xuất bản, 2013.