Cuộc đấu tranh
kiên cường dũng cảm của các lực lượng thực thi luật pháp (cảnh sát biển, kiểm
ngư) cùng nhân dân cả nước ta trong suốt 75 ngày đêm bảo vệ chủ quyền biển đảo
thiêng liêng của tổ quốc đã đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc.
Nhưng phía Trung Quốc mới dịch chuyển một giàn khoan chứ
chưa hề dịch chuyển mưu đồ xâm chiếm biển đảo nước ta. Cuộc đấu tranh bảo vệ
biển đảo của chúng ta vẫn tiếp tục.
Nhìn lại sự kiện
Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương – 981, xâm phạm chủ quyền biển
đảo Việt Nam, chúng ta càng nhận thức rõ hơn bản chất và thủ đoạn của thế lực
bành trướng bá quyền, càng xác định rõ hơn nhiệm vụ tiếp tục đấu tranh bảo vệ
chủ quyền Tổ quốc trong thời gian tới.
1. Sự kiện giàn khoan Hải Dương -981 đã bộc lộ rõ bản
chất bành trướng bá quyền trong đường lối đối ngoại của Trung Quốc.
Việc Trung Quốc
đưa giàn khoan khổng lồ Hải Dương-981 vào hạ đặt tại một vùng biển nằm sâu trong vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam không phải là một sự kiện đột phát, đơn
lẻ, mà là một hành động được tính toán và chuẩn bị từ lâu của phía Trung Quốc
trong quá trình thực hiện mưu đồ độc chiếm Biển Đông. Trung Quốc đã bỏ ra hơn 1
tỷ USD, trong thời gian 6 năm, để chế tạo ra giàn khoan khổng lồ Hải Dương-981
(dài 114 mét, rộng 90 mét, cao 137,8 mét, nặng 31.000 tấn, có thể hoạt động ở
độ sâu tối đa 3000 mét, có thể khoan sâu tới 12.000 mét) không chỉ để khai thác
dầu khí trên Biển Đông (theo một số đánh giá có thể " đủ dùng cho Trung
Quốc khoảng 100 năm") mà quan trọng hơn là để đánh dấu chủ quyền
của Trung Quốc trên Biển Đông. Trong lần
đầu tiên giàn khoan Hải Dương-981 hạ đặt tại địa điểm sâu trong vùng biển Việt Nam,
thăm dò dầu khí là cái cớ, mục tiêu thâm hiểm của phía Trung Quốc là cắm điểm
chủ quyền. Tính chất nghiêm trọng của sự kiện này đối với Việt Nam chính là ở
chỗ đó. Sự lo ngại của các nước ven bờ
Biển Đông và các nước khác có lợi ích ở Biển Đông cũng chính là ở chỗ đó. Bởi
lẽ, nếu không được ngăn chặn, giàn khoan Hải Dương-981 và các giàn khoan khổng
lồ khác của Trung Quốc sẽ ngang nhiên tới xâm phạm các vùng biển của các nước
khác, thực hiện mục tiêu của Trung Quốc
độc chiếm Biển Đông , nơi có lưu lượng hàng hải thương mại chiếm hơn 40% toàn thế giới - Trung Quốc đã chọn thời
điểm hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 tại
vùng biển Việt Nam khi sự kiện UKraina
đang thu hút dư luận quốc tế, Liên bang Nga đang cần xích lại Trung Quốc để đối phó với sức ép Phương Tây, Trung Quốc
đang dùng kinh tế thương mại để cải thiện quan hệ với Ấn Độ, khi Trung Quốc đã
tiến hành những hoạt động ngoại giao nhằm lôi kéo phân hóa các nước ASEAN, hy
vọng có thể cô lập Việt Nam, đồng thời vừa tiến hành một số hoạt động hữu nghị
Trung - Việt với "phương châm 16 chữ" và " tinh thần 4 tốt"
hy vọng Việt Nam sẽ mất cảnh giác không ngăn cản Trung Quốc làm "việc đã rồi", mở đường cho họ
tiến hành các bước tiếp theo của quá trình xâm chiếm Biển Đông.
Hành động xâm phạm
và thái độ ngang ngược của phía Trung Quốc trong vụ hạ đặt trái phép giàn khoan
HĐ-981 tại vùng biển Việt Nam đã thể hiện rõ chủ nghĩa dân tộc nước lớn cực
đoan là nền tảng tư tưởng của đường lối đối ngoại bành trướng bá quyền của
Trung Quốc hiện nay. Thực ra, những người cầm quyền ở Trung Quốc biết rõ hơn ai
hết cái gọi là "đường đứt khúc 9 đoạn" ( bản đồ Trung Quốc gần đây
sửa thành 10 đoạn) tạo thành "lưỡi bò" chiếm gần hết Biển Đông được
vẽ ra một cách tùy tiện cuối thời chính quyền Quốc dân đảng là không có cơ sở
pháp lý quốc tế và không hề được thế giới thừa nhận. Nhưng họ đã không cưỡng
nổi cơn thèm khát bành trướng, không kiềm chế được sự ngạo mạn của kẻ mới trỗi
dậy tự cho mình đã đến lúc có thể xưng bá khu vực. Nói cách khác, họ đã không
đoạn tuyệt được truyền thống chủ nghĩa Đại Hán trong lịch sử đế chế Trung Hoa.
Vụ đặt giàn khoan Hải
Dương-981 không phải là sự kiện đơn lẻ, vì đó là một bước đi nghiêm trọng của
Trung Quốc nhằm thực hiện bá chủ Biển Đông, bá chủ khu vực Đông Nam Á. Luận
điệu của họ liên quan đến sự kiện này chung quy chỉ có hai điều: "Trung
Quốc không bành trướng" "Trung Quốc không gây rối". Họ bất chấp
luật pháp quốc tế, đặc biệt là "Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982
mà Trung Quốc đã ký kết; bất chấp những bằng chứng lịch sử mà Việt Nam và nhiều
học giả quốc tế đã đưa ra chứng minh Việt Nam đã xác lập chủ quyền đối với các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ các thế kỷ 17,18. Trung Quốc tự cho họ có
quyền đưa giàn khoan và tầu chiến, máy bay tới xâm phạm vùng biển Việt Nam,
thậm chí đâm chìm tàu cá, đâm hỏng tàu kiểm ngư của Việt Nam là "không gây rối", còn Việt Nam
đưa các tàu cảnh sát biển, kiểm ngư ra làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền vùng biển
của mình, ngư dân Việt Nam đưa tàu ra đánh cá trong vùng biển của mình là
" gây rối", thậm chí còn dùng các thủ đoạn xảo trá vu khống tàu Việt
Nam va đâm tàu Trung Quốc . Trung Quốc tự cho mình có quyền độc chiếm Biển
Đông, còn các quốc gia khác đòi phải được tự do an toàn hàng hải thì bị họ quy
kết là " can thiệp" vào công việc nội bộ khu vực. Qua vụ hạ đặt giàn
khoan Hải Dương-981 Trung Quốc càng bộc rõ ý đồ chiến lược của họ tiến tới làm
chủ bờ Tây Thái Bình Dương. Một chuỗi các sự kiện căng thẳng xảy ra trong mấy
năm qua: 2012 tranh chấp bãi đá Scaborougs/Hoàng Nham với Philippin; 2013 tranh
chấp quần đảo Shenkaku/Điếu Ngư với Nhật Bản, tuyên bố thiết lập "Vùng
nhận diện phòng không" trên vùng biển Hoa Đông; 2014 hạ đặt giàn khoan khổng lồ Hải Dương-981 sâu vào vùng biển Việt Nam là một chuỗi các
hành động có chủ ý được sắp đặt của
Trung Quốc nhằm thách thức các nước
trong khu vực, thách thức phản ứng của các nước trên thế giới, thách thức luật
pháp quốc tế.
Khi Uỷ viên Quốc
vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì sang Việt Nam dự cuộc gặp giữa hai Chủ tịch Uỷ
ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc, phía Trung Quốc không
những vẫn lặp lại lập trường cứng rắn ngang ngược về vấn đề chủ quyền Biển Đông
mà còn tăng cường sức ép vũ trang tại hiện
trường xung quanh nơi hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981, chuẩn bị đưa các giàn
khoan khác vào Biển Đông. Sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương -981
vào vùng biển Việt Nam là sự cảnh báo mới nghiêm trọng về nguy cơ chủ nghĩa
bành trướng bá quyền Trung Quốc đối với các nước trong khu vực.
Khi rút giàn khoan
Hải Dương – 981 khỏi vùng biển Việt Nam, ngày 15-7 Tân Hoa xã còn dẫn thông báo
của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNPC) trâng tráo nói rằng giàn khoan
Hải Dương – 981 “đã hoàn thành việc khoan và thăm dò”, “phát hiện các dấu hiệu
của dầu mỏ và khí đốt”, và sẽ “đánh giá dữ liệu thu thập được” để “quyết định
bước đi tiếp theo”.
2. Sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981
thể hiện ý chí kiên cường của dân tộc Việt Nam bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ
quốc, đồng thời thể hiện thiện chí của Việt Nam muốn giải quyết tranh chấp với
Trung Quốc bằng giải pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Hành động ngang
ngược xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền biển đảo Việt Nam của phía Trung Quốc lần
này đã dồn ép Việt Nam vào thế không thể không có hành động phản kháng quyết liệt vì chủ quyền
lãnh thổ của đất nước, vì sự tôn nghiêm của dân tộc. Hành động xâm phạm thô bạo
của phía Trung Quốc đã làm lộ rõ bộ mặt thật của họ sau tấm màn hữu nghị với
phương châm "16 chữ" và " tinh thần 4 tốt". Các nhà lãnh đạo
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã thay mặt nhân dân thể hiện khí phách và ý chí bảo
vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định “Việt Nam nhất định không chấp nhận đánh đổi
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, để nhận lấy một thứ hoà bình hữu nghị
viển vông, lệ thuộc”. Chủ tịch Trương Tấn Sang nhắc lại lời của vua Lê Thánh
Tông từng nói với triều thần, đã được ghi rõ trong Đại Việt sử ký toàn thư: “Một
thước núi, một tấc sông của ta lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh
biện, chớ cho họ lấn dần..Nếu ngươi dám đem một thước núi, một tấc đất của Thái
tổ làm mồi cho giặc thì tội phải chu di”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong
buổi tiếp Uỷ viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì (tại Hà Nội, ngày 18-6-2014)
đã khẳng định: “Lập trường về chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa là không thay đổi và không thể thay đổi”2
Tại vùng biển
Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 các chiến sĩ cảnh sát biển, các nhân
viên kiểm ngư Việt Nam suốt 75 ngày đêm đã kiên cường bám biển thực thi luật
pháp, đấu tranh dũng cảm mưu trí, không quản ngại gian khổ hy sinh để bảo vệ
vùng biển thân yêu của Tổ quốc. Trong điều kiện khó khăn do đối phương tung ra
một số lượng phương tiện tàu bè nhiều gấp bội và sử dụng nhiều thủ đoạn thô
bạo, lực lượng cảnh sát biển và kiểm ngư của Việt Nam vẫn hoạt động thường
xuyên tại khu vực cách giàn khoan Hải Dương-981 khoảng 10 hải lý để đấu tranh
tuyên truyền phía Trung Quốc rút giàn khoan và để bảo vệ ngư dân Việt Nam.
Trong khi đó các tàu đánh cá của Việt Nam vẫn duy trì hoạt động đánh bắt cá
trong vùng biển Hoàng Sa cách nơi Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương-981
khoảng 30-40 hải lý bất chấp hành động đe doạ xua đuổi, va đâm của lực lượng vũ
trang và tàu cá Trung Quốc3.
Hành động ngang
ngược của phía Trung Quốc hạ đạt giàn khoan Hải Dương-981 sâu vào vùng biển
Việt Nam đã dấy lên sự phẫn nộ và một phong trào phản kháng mạnh mẽ của nhân
dân trong cả nước và kiều bào ta tại các nước trên thế giới, thể hiện quyết tâm
của toàn thể dân tộc Việt Nam bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Hơn hai tháng qua,
xuất phát từ lợi ích và quan hệ hữu nghị lâu dài giữa nhân dân hai nước Việt -
Trung, với mong muốn duy trì hoà bình ổn định trong khu vực để phát triển đất
nước, lãnh đạo Việt Nam luôn chủ trương và cố kiềm chế để cuộc đấu tranh bảo vệ
chủ quyền biển đảo tiến hành bằng biện pháp hoà bình, tránh xung đột và nguy cơ
xảy ra chiến tranh. Với chủ trương chỉ đạo đó, phía Việt Nam chỉ sử dụng các
lực lượng chấp pháp: Cảnh sát biển và kiểm ngư, phối hợp với tàu đánh cá của
ngư dân hoạt động tại khu vực này để đấu tranh với đối phương, bảo vệ chủ
quyền. Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh nói rõ: Việt Nam "không sử dụng lưc lượng chiến
đấu như máy bay, tàu tên lửa, tàu pháo, lực lượng đặc công người nhái để phá
huỷ giàn khoan của Trung Quốc" 4.
Cuộc đấu tranh
chính nghĩa bảo vệ chủ quyền biển đảo của nhân dân Việt Nam đã nhận được sự
đồng tình ủng hộ của nhân dân và chính phủ các nước trên thế giới qua nhiều
hình thức thể hiện. Trên các diễn đàn và Hội nghị quốc tế, đại biểu nhiều nước
đã lên tiếng tỏ ý lo ngại về tình hình căng thẳng ở Biển Đông do Trung Quốc hạ
đặt giàn khoan Hải Dương-981 sâu trong vùng biển Việt Nam, phản đối hành động
ngang ngược của phía Trung Quốc và thể
hiện sự đồng tình với lập trường chính nghĩa của Việt Nam. Tại các hội thảo
quốc tế, học giả của nhiều nước đã đưa ra những lập luận minh chứng cho chủ
quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hình thức thể hiện
và mức độ thể hiện đồng tình ủng hộ Việt Nam của Chính phủ các nước khác nhau
do nhiều nguyên nhân, nhưng quan điểm phổ biến là phải giải quyết tranh chấp
trên Biển Đông bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Cho tới
nay, sau khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981, chưa hề có
chính phủ nước nào trên thế giới lên tiếng đồng tình ủng hộ hành động ngang
ngược của Trung Quốc. Chỉ mấy ngày sau khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải
Dương-981 Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN ngày 10/5/2014 đã nhất trí thông qua một
Tuyên bố riêng về tình hình nghiêm trọng Biển Đông . Đặc biệt là các nhân vật
quyền lực của Mỹ, từ Tổng thống, Phó Tổng thống, các Bộ trưởng Quốc phòng,
Ngoại giao, các Nghị sĩ Thượng viện, Hạ viện vv…đều lên tiếng phản đối hành
động gây hấn của Trung Quốc . Tại diễn đàn An ninh châu Á- Thái Bình Dương (Đối
thoại Shangri- La) ngày 30-5-2014 Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagcl đã tuyên
bố: "Nước Mỹ không đứng về bên nào trong tranh chấp lãnh thổ, nhưng chúng
tôi mạnh mẽ phản đối bất kỳ quốc gia nào lấy việc khủng bố tinh thần, cưỡng bức
hay đe doạ dùng vũ lực để củng cố tuyên bố chủ quyền của mình". Tuyên bố
trên được giới phân tích đánh giá là mạnh mẽ nhất trong các phát biểu của Bộ
trưởng Quốc phòng Mỹ trong thời gian gần đây. Trong cuộc “Đối thoại Mỹ – Trung
về chiến lược và kinh tế” tại Bắc Kinh đầu tháng 7 vừa qua, Ngoại trưởng Mỹ
John Kerry cũng cảnh cáo hành động sử dụng vũ lực gây hấn của Trung Quốc trên
Biển Đông là “không thể chấp nhận”.
Phát biểu tại Học
viện Quốc phòng West Point ngày 25-5-2014 Tổng thống B. Obama cảnh cáo rằng
Wasinhton sẵn sàng phản ứng lại sự gây hấn của Trung Quốc. Phát biểu mở đầu
Diễn đàn Shangri-La 2014, Thủ tướng Nhật Bản Shin Zo Abe đã nêu đích danh Trung
Quốc trong việc đe doạ bằng vũ lực để thay đổi hiện trạng trên Biển Đông , kêu
gọi các bên liên quan, đặc biệt là Trung Quốc , phải tôn trọng luật pháp quốc
tế, không gây xung đột với các nước láng giềng.
Hơn hai tháng qua,
Việt Nam đã triển khai các hoạt động ngoại giao, thông qua các Công hàm gửi
Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế
khác, các buổi họp báo của Bộ Ngoại giao, các hoạt động giao lưu của các
sứ quán Việt Nam và kiều bào ta ở nước ngoài vv… tố cáo hành động xâm phạm chủ
quyền đảo Việt Nam và các luận điệu xuyên tạc vu khống bịa đặt của phía Trung
Quốc , nhận được sự đồng tình ủng hộ
rộng rãi của bạn bè quốc tế.
Đấu tranh pháp lý
cũng là một biện pháp đấu tranh hoà bình. Việt Nam vẫn sẵn sàng để trong trường
hợp cần thiết có thể đưa vấn đề Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Việt Nam ra cơ
quan trọng tài quốc tế. Ngày 23/6 vừa qua Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Hồ
Xuân Sơn đã cùng Tổng Thư ký Toà trọng tài Thường trực (PCA) Hugo Hans Siblesz
ký 2 văn kiện : ": Hiệp định nước chủ nhà" và " Thư trao đổi và
hợp tác giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt
Nam và Toà trọng tài Thường trực" . Việc ký kết hai văn kiện đó sẽ tạo ra
điều kiện cho Việt Nam nhận được sự hỗ trợ của PCA trong việc tiếp cận tốt hơn
với các thủ tục thuộc quy trình Trọng tài quốc tế do PCA điều hành, góp phần
giải quyết hoà bình các tranh chấp trong khu vực 5.
3. Con đường duy nhất đi tới hoà bình ổn định trên
Biển Đông là sau khi Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương-981 và các tàu hộ tống
ra khỏi vùng biển Việt Nam, phải cùng đàm phán giải quyết các tranh chấp, bất
đồng giữa hai nước bằng các biện pháp hoà bình, phù hợp với luật pháp quốc tế,
nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 và nhận thức chung giữa lãnh
đạo cấp cao hai nước.
Hơn 2 tháng qua,
mặc dầu Việt Nam đã kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp hoà bình với thiện
chí làm dịu bớt căng thẳng trong quan hệ Việt- Trung do việc Trung Quốc hạ đặt
trái phép giàn khoan Hải Dương-981 sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa của Việt Nam, tiến tới hai bên có thể thông qua đàm phán giải quyết các vấn
đề tranh chấp biển đảo, vì lợi ích của nhân dân hai nước, góp phần vào việc duy
trì hoà bình ổn định trên Biển Đông, nhưng
phía Trung Quốc chẳng những chưa
hề có dấu hiệu muốn làm dịu bớt tình hình, ngược lại, đã có những hành động làm
cho tình hình Biển Đông cẳng thẳng gia tăng đến mức nguy hiểm. Trong lần tới Hà
Nội gặp gỡ các nhà lãnh đạo Việt Nam vừa qua (18/6) Uỷ viên Quốc vụ Trung Quốc
Dương Khiết Trì vẫn khẳng định lại lập
trường của phía Trung Quốc về chủ quyền đối với Biển Đông. Ngay sau hoạt động
ngoại giao này, phía Trung Quốc đã có một loạt các hoạt động mang tính chất
khiêu khích: Tăng cường lực lượng tàu biển và máy bay tại khu vực hạ đặt giàn
khoan Hải Dương-981, tấn công gây hư hỏng nặng tàu kiểm ngư 915 của Việt Nam
(ngày 23/6), tuyên bố đưa giàn khoan Nam Hải -09 tới vùng biển ngoài cửa Vịnh
Bắc Bộ. Đáng chú ý là Trung Quốc đang triển khai kế hoạch cải tạo các bãi đá
ngầm tại quần đảo Trường Sa xâm chiếm được trước đây thành đảo nổi nhân tạo và
căn cứ quân sự; lần đầu tiên công bố bản đồ CHND Trung Hoa mới in theo khổ dọc,
trên đó biển “Nam Hải" của Trung Quốc là "đường lưỡi bò" 10 đoạn
choán hầu hết Biển Đông . Ngày 27/6 Chủ tịch Trung Quốc (cũng là Chủ tịch Quân
uỷ Trung ương) Tập Cận Bình ra lệnh "xây dựng mạng lưới phòng thủ biên
giới vững chắc" cho "lãnh thổ và lãnh hải" Trung Quốc (theo họ
là bao gồm cả Biển Đông ).
Một vấn đề đặt ra
cho lãnh đạo các nước liên quan và giới nghiên cứu là cần theo dõi chặt chẽ để
xem phải chăng Trung Quốc đang thừa cơ tình hình quốc té hiện có nhiều vấn đề
rối ren để tiến hành những bước mạo hiểm sử dụng vũ lực nhằm đẩy nhanh việc
thực hiện bành trướng xuống Biển Đông và cả khu vực Đông Nam Á nói chung. Nếu
vậy thì sẽ là một sai lầm lịch sử, không những gây tai hoạ cho các nước khác mà
cũng gây tai hoạ cho chính bản thân nhân dân Trung Quốc . Thế giới ngày nay tuy
phải đứng trước nhiều vấn đề khó khăn phức tạp trong quan hệ quốc tế, nhưng sẽ
không cho phép hình thành các đế quốc thống trị khu vực như đã diễn ra trong
lịch sử trước đây.
Nhân dân Việt Nam
đã phải trải qua nhiều gian khổ hy sinh trong các cuộc chiến tranh chống ngoại
xâm, ngày nay mong muốn hoà bình để phát triển đất nước, nâng cao cuộc sống,
cùng cộng đồng quốc tế chung sống hoà bình, hữu nghị . Nhưng lịch sử dân tộc
Việt Nam cũng đã chứng minh chân lý "Không có gì quý hơn độc lập tự
do" như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Suy rộng ra, "độc lập tự
do" cũng bao hàm cả " chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ" . Trong
thời gian vừa qua, trước hành động xâm phạm và gây hấn của phía Trung Quốc hạ
đặt giàn khoan Hải Dương-981 sâu trong vùng biển Việt Nam , Đảng, Chính phủ, và
nhân dân Việt Nam buộc phải kiên quết đấu tranh bảo vệ chủ quyền đất nước,
nhưng đồng thời cũng mong muốn vấn đề sẽ
được giải quyết bằng biện pháp hoà bình thông qua thương lượng .
Vấn đề Biển Đông
do lịch sử để lại vốn rất phức tạp, chỉ có thông qua đàm phán thương lượng giữa
các bên mới giải quyết được vấn đề một cách thoả đáng để các bên có thể chấp
thuận. Đàm phán, thương lượng phải trên cơ sở những nguyên tắc nhất định, đó là
luật pháp quốc tế, chủ yếu là Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982. Việc
tiến hành đàm phán và vận dụng luật pháp quốc tế vào điều kiện cụ thể cũng cần
có sự nhận thức chung của các bên liên quan, trong trường hợp quan hệ
Việt-Trung hiện nay thoả thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai nước có một vai trò
rất quan trọng. Đó là lý do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng "đề nghị khẩn
trương trao đổi để có các giải pháp sớm ổn định tình hình, tạo tiền đề cho các
giải pháp cơ bản và lâu dài giải quyết các vấn đề trên biển, xuất phát từ lợi
ích đại cục giữa hai nước, trên cơ sở các thoả thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai
nước và luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển
1982"6 . Đó chính là con đường duy nhất dẫn tới hoà bình ổn
định trên Biển Đông, cũng là con đường duy nhất dẫn tới hợp tác hữu nghị thực
sự giữa hai nước Việt -Trung.
Trung Quốc có quan điểm rất sai trái khi chủ trương
chỉ đàm phán song phương và cự tuyệt đàm phán đa phương, phản đối Việt Nam
" đa phương hoá", " khu vực hoá", " quốc tế hoá"
vấn đề tranh chấp Biển Đông . Một thực tế đơn giản ai cũng có thể hiểu: Trong
các vấn đề liên quan đến Biển Đông có vấn đề song phương, có vấn đề đa phương,
có vấn đề khu vực, có vấn đề quốc tế. Các vấn đề song phương phải được giải
quyết theo cơ chế đàm phán song phương. Các vấn đề đa phương phải được giải
quyết theo cơ chế đàm phán đa phương. (Ví dụ vấn đề tranh chấp quần đảo Trường
Sa liên quan đến 5 nước 6 bên), chỉ đàm phán song phương giữa hai nước làm thế
nào để giải quyết được vấn đề cả 5 nước 6 bên đều chấp thuận? Các vấn đề khu
vực phải giải quyết theo cơ chế đàm phán khu vực. Hoà bình ổn định, hợp tác
phát triển trong Biển Đông gắn liền với lợi ích quan trọng của cả khu vực Đông Nam
Á, ASEAN với tư cách là một tổ chức khu vực, phải có trách nhiệm đàm phán với
Trung Quốc về các vấn đề có liên quan. Các vấn đề quốc tế phải được giải quyết
qua cơ chế đàm phán quốc tế. Tại Biển Đông có lợi ích của nhiều quốc gia trên
thế giới, nhất là lợi ích về tự do hàng
hải và hàng không, nơi có lưu lượng hàng hải thương mại chiếm gần 40% thương mại toàn cầu. Các nước có lợi ích
tại đây quan tâm đến các vấn đề liên quan đến Biển Đông là lẽ đương nhiên,
chẳng phải vì ai lôi kéo. Giải quyết vấn đề Biển Đông qua thương lượng hòa bình
trên cơ sở luật pháp quốc tế là lập trường nhất quán của phía Việt Nam. Ngay
sau khi được tin giàn khoan Hải Dương – 981 dịch chuyển ra ngoài vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu
Trung Quốc không tái diễn hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài
phán trên vùng biển của Việt Nam, đồng thời khẳng định lập trường Việt Nam sẵn
sàng cùng Trung Quốc và các bên liên quan đàm phán hòa bình giải quyết các
tranh chấp trên Biển Đông theo luật pháp quốc tế. Phát biểu của người phát ngôn
Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 16-7-2014 đã khẳng định “Việt Nam yêu cầu Trung
Quốc không đưa giàn khoan Hải Dương – 981 quay trở lại hoặc đưa bất cứ giàn
khoan nào khác vào hoạt động ở khu vực lô dầu khí 143 của Việt Nam hoặc bất cứ khu vực nào khác thuộc
vùng biển của Việt Nam”; “Việt Nam mong muốn thông qua đàm phán hữu nghị để
giải quyết các tranh chấp, bất đồng ở Biển Đông trên cơ sở pháp luật quốc tế,
trong đó có Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982”, “Việt Nam kiên quyết bảo
vệ chủ quyền, quyền chủ quyền theo đúng luật pháp quốc tế…”.
Tóm lại, mấu
chốt giải quyết vấn đề Biển Đông hiện nay là Trung Quốc phải thức tỉnh khỏi
giấc mơ bành trướng, thực sự coi trọng quan hệ chung sống hoà bình, hợp tác hữu
nghị lâu dài với các nước láng giềng tại Đông Nam Á và cộng đồng quốc tế nói
chung, tôn trọng thực tế lịch sử, tôn trọng luật pháp quốc tế, có thiện chí
thông qua đàm phán hoà bình để cùng các đối tác từng bước giải quyết thoả đáng
các vấn đề Biển Đông do lịch sừ để lại.
CHÚ
THÍCH:
1. Ngày 2/5/2014
giàn khoan Hải Dương -981 của Trung Quốc đã được hạ đặt trái phép tại toạ độ 15029'58''
vĩ Bắc-111012'06'' kinh Đông, phía Nam đảo Tri Tôn sâu vào trong
thềm lục địa của Việt Nam 80 hải lý, cách đảo Lý Sơn 119 hải lý, cách bờ biển
Việt Nam 130 hải lý (ngày 27/5 giàn khoan
được di chuyển đến vị trí mới cách đảo Tri Tôn 25 hải lý về phía Đông
Nam, sâu trong vùng biển Việt Nam 57 hải lý). Tại thời điểm 18 giờ 30 phút ngày
16-7-2014 giàn khoan Hải Dương – 981 đã dịch chuyển khỏi vị trí cũ 41 hải lý,
ra ngoài vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, vị trí mới cách
đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 163 hải lý về phía Tây Nam.
2. Trích phát biểu
của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời phỏng vấn của hãng AP và Reu ters bên lề
Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới khu vực Đông Nam Á 2014 ( tại Philippin);
Phát biểu của Chủ tịch Trương Tấn Sang trả lời phỏng vấn của phóng viên Thông
tấn xã Việt Nam ngày 20-6-2014; Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại
buổi tiếp Uỷ viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì ngày 18-6-2014
3. Suốt 2 tháng
qua Trung Quốc đã đưa ra khoảng 120-135 tàu các loại, kể cả tàu chiến và máy
bay trinh sát, tiêm kích, trực thăng, sử dụng các thủ đoạn thô bạo để uy hiếp
ngăn cản lực lượng thực thi luật pháp của Việt Nam.
4. Phát biểu của
Đại tướng Phùng Quang Thanh bên lề Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN
lần thứ 8 (tại Thủ đô Naypyidaw của Myanma).
5. Toà trọng tài
Thường trực là tổ chức liên chính phủ với 115 quốc gia thành viên được thành
lập theo Công ước La Hay năm 1999 về giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc
tế. Việt Nam tham gia Công ước này năm 2011. PCA có thẩm quyền giải quyết tất
cả các tranh chấp, bao gồm cả tranh chấp lãnh thổ giữa các quốc gia thành viên.
6. Phát biểu của
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong buổi tiếp Uỷ viên Quốc vụ Trung Quốc Dương
Khiết Trì (tại Hà Nội, Ngày 18/6/2014).
Trường Lưu