1. Tết âm lịch (nông lịch tân niên) là tết cổ truyền lớn nhất
trong các lễ tết của một năm âm lịch, đã là di sản quý báu trong văn hóa Trung
Hoa. Trước đây, Tết âm lịch thường được gọi là Tết Nguyên đán (元旦), ngoài ra có một số tên gọi như: Nguyên nhật (元日), nguyên thần (元辰), nguyên
xuân (元春), nguyên chính (元正), nguyên sóc (元朔), tam
nguyên (三元), tân niên (新年), đoan nhật (端日), niên
tiết (年节), xuân tiết (春节)...(1) Nhưng bắt đầu từ năm 1912, thuật ngữ Tết
Nguyên đán được người Trung Hoa dùng để chỉ Tết dương lịch (công lịch) còn Tết
âm lịch gọi là Xuân tiết. Cụ thể
là sau khi lên làm Đại Tổng thống Trung Hoa dân quốc, Tôn Trung Sơn đã quyết định
dùng dương lịch theo thông dụng nhiều nước trên thế giới, lấy ngày 1/1/1912 dương
lịch làm ngày 1 tháng 1 năm mở đầu Dân quốc (Dân
quốc nguyên niên), nhưng vẫn duy trì dùng âm lịch. Do
đó, để phân biệt Tết âm lịch và Tết dương lịch, Tôn Trung Sơn lấy ngày 1 tháng
1 năm dương lịch làm ngày mở đầu Tết Nguyên đán, lấy ngày 1 tháng Giêng năm âm
lịch làm ngày mở đầu Xuân tiết (春节). Đến ngày 27/9/1949, nước CHND Trung Hoa
chính thức ban hành quyết định gọi Tết dương lịch là Tết Nguyên đán, Tết âm lịch
là Xuân tiết(2). Thực ra, chữ “Xuân tiết” được các nhà
nghiên cứu tìm thấy sớm nhất trong thiên
Dương Chấn truyện, tác phẩm Hán thư
của Phạm Diệp thời nhà Tống, nhưng nó chính thức được dùng với tư cách là một
danh từ chuyên để chỉ Tết âm lịch thì phải kể từ năm 1949 đến nay.
Học giả Trung Quốc giải thích "Nguyên
là mở đầu, đán là buổi sớm. Nguyên đán (元旦)
là để chỉ buổi sớm ngày đầu tiên trong một năm. Trên thực tế,
mốc mở đầu Tết Nguyên đán cũng thay đổi theo quy ước của một số triều đại phong
kiến Trung Hoa. Ví như nhà Hạ lấy ngày 1 tháng 11, nhà Thương lấy ngày 1 tháng
Chạp (tháng
12), nhà Tần lấy ngày 1 tháng 10... Đến
thời Hán Vũ Đế đã căn cứ vào ghi chép hiện tượng thiên nhiên, lấy ngày 1 tháng
Giêng làm ngày đầu tiên của tháng đầu tiên trong năm, tức là ngày Nguyên đán -
ngày mùng một tết. Từ đó về sau, thời gian bắt đầu của Tết Nguyên đán cổ truyền
mới được ổn định(3). “Nguyên đán” chính thức được dùng để làm tên gọi năm mới có
từ thời nhà Hán, xuất hiện trong “Thái sơ lịch”(太初历) do Hán Vũ Đế sáng chế, ban hành từ năm 104 TCN, trong đó xác định tháng
Giêng (nông lịch) làm tháng đầu tiên của một năm, lấy ngày mùng một tháng Giêng
làm ngày đầu tiên của năm mới. Do vậy, thuật ngữ “Nguyên đán” làm tên gọi năm mới
của Trung Quốc tính đến nay đã hơn 2000 năm(4).
Tuy vậy,
trước khi chính thức có Tết Nguyên đán, những tập
tục thuộc nội hàm của nó đã xuất hiện khá rõ từ thời nhà Hạ, gắn với tục tế Lễ
tháng Chạp (Lạp tế), chủ yếu cúng khấn trời đất và tổ tiên, cầu cho cuộc sống
bình yên, no
ấm, mưa gió thuận hoà, mùa màng bội thu. Trong dịp này, ngoài việc giết lợn, mổ bò, họ còn
hoá trang, vẽ mặt nạ hình chim, nhảy múa nhộn nhịp(5). Thời nhà Hạ gọi là Tuế (岁), thời Thương gọi là Tự (祀),
đến thời Chu gọi là Niên (年) gắn với ý nghĩa thời
gian, liên quan trực tiếp tới nghề nông và lịch pháp(6). Bởi vậy, trong văn hóa dân
gian Trung Hoa, người ta đã giải thích nguồn gốc của Tết Nguyên đán cổ truyền gắn với truyền thuyết về “Niên” cùng với tục đốt pháo (ở đây là pháo nổ, ý phân biệt với
pháo hoa) và treo câu đối đỏ.
Theo họ, Niên là một loài quái vật rất hung dữ, chủ
yếu sinh sống ở vùng biển. Mỗi năm vào lúc
giao thừa, nó lại về thôn làng, bắt người, tàn sát vật nuôi, phá hoại nhà cửa,
cây cối, khiến ai cũng sợ hãi. Nhân dân nghĩ nhiều cách đối phó với Niên nhưng
không có hiệu quả. Vì vậy, mỗi năm cứ chuẩn bị đến giao thừa, họ lại phải rời bỏ
thôn làng, lánh ẩn lên núi cao, mấy ngày sau mới trở về. Nhưng có một lần, sau
khi người dân đã lên núi tránh nạn thì xuất hiện một cụ già mặc quần áo màu đỏ,
đem đào phù (桃符) màu đỏ đến treo lên cửa từng nhà (chính là bùa đào, câu
đối tết), đồng thời cắm cây trúc đang cháy rừng rực, phát ra tiếng nổ tanh tách. Niên nhìn thấy màu đỏ của đào
phù và ngọn lửa cháy cùng tiếng nổ tanh tách của cây trúc đã vô cùng sợ hãi mà chạy thẳng
về biển, không dám trở lại nữa. Khi người dân trở về làng, thấy mọi vật đều bình yên vô sự, lập tức tổ chức ca hát, nhảy múa tỏ sự vui mừng
khôn xiết. Để kỷ niệm về sự việc này và bày tỏ lòng biết ơn cụ già đã nghĩ cách
cứu giúp dân làng, họ quyết định mỗi năm vào đêm giao thừa đều làm lễ ăn mừng
và phải đốt pháo trúc cùng treo câu đối đỏ để xua đuổi quái vật phòng khi nó trở
lại sát hại thôn làng. Tết ra đời từ đó(7).
Trong truyền thuyết ấy, tuy có nhiều yếu
tố hoang đường và đậm màu sắc dân gian, nhưng đã phản ánh thực chất về tập tục của tết cổ truyền là
nhằm thể hiện tâm nguyện của nhân dân xua đuổi ác quỷ, tiêu trừ tai hoạ, cầu
nguyên may mắn, cuộc sống an lành, hạnh phúc. Cũng từ đó mà các chữ phúc (福), lộc (禄), thọ (寿), hỉ (喜: vui), cát (吉: thuận lợi, tốt lành)... được đẩy lên giá trị cao nhất
trong dân gian, dần trở nên quen thuộc, sử dụng nhiều hơn trong các gia đình, đặc
biệt là mỗi khi tết đến xuân về(8).
2. Trong văn hóa Trung Hoa, Tết âm lịch có nhiều tập tục
phong phú và đa dạng cùng một số điều cấm kỵ, trong đó câu đối tết và tục nổ pháo cũng là di sản văn
hóa đã được tích lọc qua mấy ngàn năm lịch sử.
Có thể nó tiền thân của câu đối chính là đào phù (桃符), được dân gian Trung
Hoa xem như một loại thần tượng hoặc là thần danh, dùng để trừ qủy đuổi tà, sau
gọi là xuân liên (春联), đối liên (对联), trở thành một hoạt động văn
hóa quan trọng. Văn hóa câu đối tết được biết đến ở Trung Hoa một cách chính thức
là từ năm 964. Sang thời Minh thì phổ biến
khá rộng rãi vì vua Chu Nguyên Chương rất thích câu đối, nên đã yêu cầu các gia
đình treo câu đối trong dịp Tết Nguyên đán(9). Căn cứ vào vị trí dán câu
đối, người ta chia thành các loại như: “Môn tâm” - dán ở chính giữa cánh cửa; “Khuông đối” -
dán trên hai cánh cửa phải và trái; “Hoành phi” - dán ngang trên dạ cửa...(10) Trong số nhiều loại câu đối tết,
phổ biến là loại câu đối treo hai bên cửa nhà. Cùng với sự phát triển thời đại,
nội dung và hình thức của nó không ngừng đổi mới, ngày càng đa dạng, phong phú
về nội dung lẫn hình thức, trở thành nét văn hoá câu đối tết. Ngoài ý nghĩa ban
đầu, giờ đây nó còn thể hiện sự chúc tụng, lý giải hiện tượng xã hội và một số
hiện tượng trong cuộc sống.
Khởi đầu tục đốt pháo vào đêm
giao thừa cũng được xem như một phương thức hữu hiệu xua đuổi quái quỷ tà ma,
sau này được dân gian nâng ý nghĩa lên thành tục đốt pháo lúc gia đình có việc lớn,
việc mới như lễ cưới hỏi, mừng tân gia, mừng thọ, đám giỗ tổ, khai trương công
ty, nhà hàng... với hy vọng đem đến may mắn, an lành cho gia chủ, đồng thời tạo
sự hưng phấn cho người người tham gia, cũng hàm ý từ biệt cái cũ và chào đón
cái mới. Hiện nay, đốt pháo nổ là việc làm trái pháp luật, nhưng dưới góc độ lịch
sử và đặt nó trong dòng chảy văn hoá, nhiều học giả Trung Quốc đã chỉ ra công
năng xã hội nhất định của tục nổ pháo vào Tết Nguyên đán. Đó là đốt pháo để
tăng thêm sự dũng cảm của con người trong chế ngự thiên nhiên; giải toả tâm lý
dân gian, xua đuổi tà quỷ, gạt trừ bệnh tật, tăng thêm tự tin trong cuộc sống.
Đốt pháo cũng là để gửi gắm niềm hy vọng tươi đẹp ở ngày mai, đoán xem vận mệnh
trong tương lai. Tiếng pháo giao thừa sẽ làm tăng thêm không khí rộn ràng,
tươi vui; là cầu nối năm cũ với năm mới, tiễn cái rủi ro, thỉnh cầu
may mắn(11).
Tài liệu
Trung Quốc khẳng định tục đốt pháo trong năm mới ở nước này có lịch sử hơn 1600
năm. Lúc đầu do chưa có thuốc súng nên người ta dùng tiếng nổ của cây trúc làm
pháo, gọi là bộc trúc (爆竹) hay pháo trúc - loại ống trúc kín hai đầu được
đốt cháy, phát ra tiếng nổ như pháo sau này. Đến thời nhà Đường (618-907), pháo
trúc được mở rộng chủng loại, bao gồm cả pháo tre, nhân dân gọi đây là bộc can (爆竿). Sau khi phát minh ra thuộc súng, người ta nhồi thuốc nổ vào ống tre, trúc
đốt nổ to hơn. Đến thời nhà Tống (960-1279), Trung Quốc đã biết sử dụng giấy để
quấn làm pháo, họ gọi là bộc trượng (爆仗), sau
đó xâu thành dây gọi là tiên
bào (鞭炮) - tức bánh pháo,
pháo chuột, pháo dây. Sau cùng mới xuất hiện pháo hoa. Trải qua nhiều triều đại, tục
đốt pháo đã trở thành tiêu điểm của năm mới và mãi đến năm 1988 thì Trung Quốc
mới ban lệnh cấm nổ pháo(12).
Hình ảnh về
pháo giao thừa rộn ràng nơi nơi vẫn lắng đọng trong nhiều ca khúc, bài thơ,
câu đối và thường đi cùng với xuân, rượu và hoa. Điển hình như câu đối nổi tiếng của Trung Hoa:
Chữ Hán
|
Phiên âm
|
Tạm hiểu
|
天增岁月人增寿
|
Thiên tăng tuế
nguyệt nhân tăng thọ
|
Trời đất tăng ngày tháng, ví như người tăng thêm tuổi
thọ.
|
春满乾坤福满门
|
Xuân mãn càn khôn phúc
mãn môn
|
Mùa xuân về đầy trời đất,
ví như hạnh phúc đầy nhà.
|
爆竹声声除旧岁
|
Bộc trúc thanh thanh trừ
cựu tuế
|
Tiếng pháo trúc báo hiệu
xua đi năm cũ.
|
梅花点点报新春
|
Mai hoa điểm điểm báo
tân xuân
|
Hoa mai nở báo hiệu
xuân mới đang đến
|
Đặc biệt
là bài thơ Nguyên nhật của tác giả Vương An
Thạch - nhà chính trị, nhà cải cách, nhà văn lỗi lạc thời Tống,
sáng vào năm 1068.
Chữ Hán
|
Phiên âm
|
Dịch thơ (Trần Trọng
San dịch)
|
《元日》
|
Nguyên nhật
|
Tết Nguyên Đán
|
爆竹声中一岁除
|
Bộc
trúc thanh trung nhất tuế trừ,
|
Hết
một năm rồi, tiếng pháo đưa,
|
春风送暖入屠苏
|
Xuân phong tống noãn nhập Đồ
Tô.
|
Gió xuân thổi ấm chén Đồ Tô.
|
千门万户曈曈日
|
Thiên môn vạn hộ đồng đồng nhật,
|
Ngàn cửa muôn nhà vừa rạng sáng,
|
总把新桃换旧符
|
Tổng bả tân đào hoán cựu phù.
|
Đều đem đào mới đổi bùa xưa.
|
Cũng vì
quá hoài niệm về pháo và nặng lòng với nguồn gốc văn hoá của nó mà hiện nay một
số học giả Trung Quốc đề nghị với Chính phủ nên khôi phục lại tập tục đốt pháo
nổ trong đêm giao thừa nhằm duy trì ý vị của Tết. Họ cho rằng, “đốt pháo là một
bộ phận tạo thành và là dấu hiệu nhận dạng chủ yếu của Tết âm lịch, là phong tục
truyền thống có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, là một bộ phận của văn minh Trung
Hoa”(13). Vì rằng, “ngày nay nội dung Tết
âm lịch thay đổi quá nhiều. Nhân dân theo đuổi Tết dương lịch mà làm giảm hứng
thú nhất định đối với Tết âm lịch. Việc duy trì tục nổ pháo sẽ khôi phục đến
90% ý vị của tết và đây là một biện pháp lôi cuốn dân gian trở về với tết cổ
truyền của dân tộc”(14).
3. Nói đến Tết âm lịch, chúng ta liên
tưởng đến 12 con giáp trong tổ hợp Can – Chi(15). Đây là di sản văn hóa hết sức phong phú của Trung Hoa nhưng cũng là một
thành tố quan trọng trong văn hóa một số quốc gia trên thế giới, nhất là đối với
Việt Nam. Tác giả Lý Thụ Huy đã viết: “12 cầm tinh ghi thuộc tướng, năm sinh của
con người, ghi năm - tháng -ngày - giờ - thời khắc. Nó cũng gọi là 12 thú lịch,
được lưu
dùng rộng rãi tại một số dân tộc, quốc gia ở châu Á, Đông Âu và Bắc Phi”(16). Tương ứng với 12 Địa chi (地支) là 12 con vật được chọn làm đại diện,
gọi là 12 cầm tinh (生肖), 12 thú lịch (兽历), 12 tương thuộc (属相)(17). Tuy nhiên, mỗi dân tộc lại có quan niệm chọn
con vật và xếp thứ tự các con vật ấy tương ứng với Địa chi không hoàn toàn giống
nhau. Theo Lý Thụ Huy, hiện nay các dân tộc Hán, Hồi, Tạng,
Ha-ni, Xa, Na-xi (Nạp tây), La-hô... của Trung Quốc cùng với nước Triều Tiên, Hàn
Quốc, Nhật Bản thì chọn và xếp thự tự tương ứng 12 con giáp đúng với thứ tự của
Địa chi là: con Chuột (鼠) ứng với Địa chi Tý, Trâu/bò (牛) - Sửu, Hổ (虎) - Dần, Thỏ (虎) - Mão, Rồng (龙) - Thìn, Rắn (蛇) - Tỵ, Ngựa (马) - Ngọ, Dê/cừu (羊) - Vị, Khỉ (猴) - Thân, Gà (鸡) - Dậu, Chó(犬)- Tuất, Lợn (猪)- Hợi.
Có một số dân
tộc không làm như vậy. Ví dụ dân tộc Mao Nan của Trung Quốc, chọn con Sâu thay cho con Hổ, Lợn thay Thỏ còn Mèo thay Thỏ,
Cá thay Rắn, Thịt thay Ngựa, Nhân thay Dê. Dân tộc Di ở
tỉnh Vân Nam thì xếp 12 con giáp theo thứ tự là: Hổ, Thỏ, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ,
Gà, Chó, Lợn, Chuột, Trâu... Các nước sắp xếp vấn đề đó cũng không giống nhau.
Ví dụ Ấn Độ có các con giáp và xếp theo thứ tự: Chuột, Trâu, Sư tử, Thỏ, Rồng, Rắn,
Ngựa, Dê, Khỉ, chim Kim sí (Garuda)(18), Chó, Lợn(19). Ở Việt Nam thì con Mèo tương ứng với Địa chi Mão, nhưng “Trung Quốc trừ dân tộc Mao
Nan chọn Mèo còn lại đều chọn Thỏ thuộc Địa chi Mão”(20).
Trong lịch sử Trung Hoa, việc sử dụng
các con vật phối hợp vào Địa chi chính thức được ghi chép (chưa đầy đủ) từ thời
Xuân Thu trong sách Kinh thi. Đến thời
Tần Thuỷ Hoàng, trong cuốn Nhật thư có
ghi chép tỉ mỉ hơn, nhưng về 12 con giáp cũng không hoàn toàn giống ngày nay. Ví
dụ, họ lấy con Hươu thuộc về Địa chi Ngọ, Dê thuộc về Tuất(21). Tên 12 con giáp như ngày nay, chính thức được ghi chép từ thời Đông Hán,
cụ thể là trong quyển "Luận hoành"
của Vương Sung năm 54, viết rằng: “Dần chính là hành Mộc, con vật của nó là Hổ
vậy. Tuất là hành Thổ mà con vật của nó là Khuyển (Chó), Ngọ là ngựa, Tý là chuột,
Dậu là gà, Mão là thỏ, Sửu là trâu, Vị là dê, Hợi là lợn, Thân là khỉ, Tỵ là rắn,
Thìn là rồng. Vị trí của thìn và tỵ là ở Đông Nam”(22).
Đến
nay, ở Trung Quốc vẫn tồn tại nhiều truyền thuyết lý giải về nguồn gốc xuất hiện
12 con giáp. Trong đó, truyền thuyết của dân tộc Hán được nhiều học giả nhắc tới.
Tục truyền rằng, thời xưa, Hoàng đế cần 12 con vật làm vệ sĩ cho cung đình nên ra
thông báo tuyển chọn. Biết tin này, con vật nào cũng nhận thấy đây là cơ hội hiếm
hoi để có thể được tiếp cận đời sống cung đình, nên chuẩn bị rất chu đáo, háo hức
đợi ngay dự tuyển. Vì Hoàng đế không công bố trước các tiêu chuẩn tuyển chọn, nên các con vật
phải tự trang trí cho bản thân với nỗ lực cao nhất. Khi đó, gà
trống đã có bộ lông cườm óng mượt, rất đẹp mắt lại có cặp
sừng uốn lượn rất thần khí. Chú rồng nhận thấy mình không có gì nổi bật ngoài
cái thân loằn ngoằn nên tìm cách dụ dỗ gà trống mượn đôi sừng. Gà được rồng vừa
uốn lượn hoa cả mắt lại buông ra những lời khen êm tai nên đã cao thượng mà cho
mượn đôi sừng với một điều kiện là sau khi được tuyển chọn thì rồng phải trả lại.
Còn chú mèo biết mình vốn dĩ hay ngủ dậy muộn nên từ trước đã ngon ngọt nhờ
chuột gọi cùng đi dự tuyển. Chuột nhiệt tình nhận lời và bảo mèo cứ yên tâm. Tuy
nhiên đến ngày dự tuyển, chuột lặng lẽ đi một mình. Khi chuột đến nơi, thì voi và
trâu cũng đã xếp hàng, chuột đành nghĩ cách chui vào mũi làm voi hoảng sợ mà chạy
ra khỏi hàng, đồng thời lủi lên trước chân của trâu mà trâu không biết. Hổ và rồng
nghĩ mình là vua của núi và biển nên cứ nhởn nhơ, còn thỏ thì lạ lẫm với bộ sừng
của rồng nên đi sau hổ và đi trước rồng để ngắm nghía. Rắn, ngựa, dê nối tiếp
sau rồng, rồi đến khỉ và gà. Riêng chú chó thì thích trêu chọc thỏ nên bị phạt
đứng cuối hàng. Tuy nhiên, một lát sau thấy lợn ủn
ỉn đến xếp sau chó. Kết quả là chuột được vào số 1, đến trâu... và lợn cuối
cùng. Khi việc tuyển chọn đã xong thì mọi người mới thấy
mèo cấp tập chạy đến. Vừa mất cơ hội làm vệ sĩ cung đình, lại sốc vì bị chuột thất hứa nên cau mặt chửi chuột là đồ tồi tệ nhất trần gian,
rồi hỏi tội vì sao chuột không gọi mèo. Chuột trả lời rằng, nếu gọi mèo đi cùng
thì có thể chuột bị mất cơ hội; đồng thời còn cho mèo một bài
học: từ nay về sau nếu muốn được việc thì đừng cậy chờ vào người khác. Quá sốc,
mèo liền đuổi chuột ăn thịt. Còn rồng sau khi được tuyển chọn trở về lại ăn quỵt
đôi sừng của gà. Biết gà không bơi được, nên rồng ngụp xuống nước mà không ngóc
lên. Gà vừa tức lại tiếc của nên mỗi buổi sáng cứ đứng trên cao, cong cổ mà gọi:
hãy trả lại sừng cho tôi. Tiếng gà gáy ra đời
như vậy(23).
Liên quan đến chuyện 12 con giáp, có một số học giả Trung Quốc chứng minh
nguồn gốc 12 con giáp không phải xuất phát từ Trung Quốc mà là từ nước khác; hay
có ý kiến cho rằng việc Trung Quốc lấy Thỏ làm đại biểu cho Địa chi Mão
là vì giống mèo ở Trung Quốc chủ yếu là mèo từ Ai Cập di cư tới chứ không
phải mèo bản địa; rồi chuyện các vị vua
Trung Quốc chọn con giáp nào làm con chủ... Chuyện hư thực ra sao, chúng tôi hy vọng sẽ có dịp được chia sẻ
với bạn đọc trong một bài viết khác.
chó thÝch:
(3) Lỗ Kiều: Nguyên
đán chính là Xuân tiết, Nguyệt san văn sử, số 1/2009, tr.3, Trung văn.
(4) Tống Tài Phát: Phong
tục đón Tết với việc pháp luật bảo hộ di sản văn hoá đốt pháo, Học báo Đại
học Dân tộc Trung ương Trung Quốc, số 1 năm 2006, tr.57, Trung văn.
(5) Trương Cát Trung: Nhìn lại nhà nông, số 1, 2006, tr.55, Trung văn.
(6) Ngô Sỹ Bình: Nguồn
gốc tập tục Xuân tiết của Trung Quốc, Tạp chí Cuộc sống hài hòa, số 1/2005,
tr.56, Trung
văn.
(7) Chu Kiến Quốc: Công
năng xã hội và ý nghĩa của Xuân tiết, Tạp chí xã hội học, số
2/2002, tr.19, Trung văn.
(8) Chu Kiến Quốc: Công
năng xã hội và ý nghĩa của Xuân tiết, Tạp chí xã hội, số 2/2002, tr.19, Trung văn.
(9) Mao Nhụy Nhụy: Từ
văn hóa dân gian nhìn về tập tục Xuân tiết, Tạp chí Người quản lý kinh
doanh, số tháng 5/2010, tr.250, Trung văn.
(10) Theo Đào Duy Đạt: Nguồn gốc câu đối tết và tập tục dán ngược chữ “Phúc” trong dịp tết của người
Trung Quốc, tại: http://nghiencuuquocte. net/forums/topic/nguon-goc-
(11) Đinh Cao: Về
việc cấm pháo, Báo Pháp luật Tây bộ Trung Quốc, ngày 15/1/2005, tr.4, Trung văn.
(12) Tống Tài Phát: Phong tục đón Tết với việc pháp luật bảo hộ di sản văn
hoá đốt pháo, Học báo Đại học Dân tộc
Trung ương Trung Quốc, số 1 năm 2006, tr.59, Trung văn.
(13) Li Úc: Âm
thanh pháo trúc, Nhật báo pháp chế, ngày 17/2/ 2005, tr.2, Trung văn.
(14) Lí Thiên Kỳ: Lệnh
cấm nổ pháo và việc giữ lại âm thanh pháo trúc, Báo Khai phá Tây bộ, ngày 20/1/2005, tr.6, Trung văn.
(15) Từ thời cổ đại, người ta biết kết hợp 10 thiên
can (天干) gồm: Giáp, Ất,
Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý (甲、乙、丙、丁、戊、己、庚、辛、壬、癸) và 12 Địa chi (地支) gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Vị (mùi),
Thân, Dậu, Tuất, Hợi (子、丑、寅、卯、辰、巳、午、未、申、酉、戌、亥) tạo thành tổ hợp 60 Can - Chi để ghi thời gian (năm,
tháng, ngày, giờ) và biểu đạt phương hướng.
(17) Ngô Dụ Thành: 12
cầm tinh trong văn hoá Trung Hoa, Nxb. Nhân dân, Thiên Tân, 1993, tr.86, 99, Trung văn.
(18) Theo thần thoại cổ Ấn Độ, loại chim này có hình
dáng giống như đại bàng nhưng to lớn, thân thể rực rỡ như thần lửa, tính khí rất
mãnh liệt. Còn trong kinh Phật, chim Kim Sí là một loài trong Bát bộ chúng, được
phiên âm thành nhiều tên là Yết lộ đồ, Già lâu la...
(19) Lí Thụ Huy: 12
cầm tinh, khởi nguyên và lưu biến, Tạp chí khoa học, ĐHSP Tân
Cương, số 1/1999, tr.50, Trung văn.
(20) Ngô Dụ Thành: 12
cầm tinh trong văn hoá Trung Hoa, Nxb. Nhân dân, Thiên Tân, 1993, tr.86, 99, Trung văn.
(21) Chu Trị Hoa: 12
cầm tinh là đặc sắc văn hoá cổ đại
Trung Hoa, Tạp chí Giang Tô, số 9/1997, tr.18, Trung văn.
(22) Lưu Quốc Trung: Thử bàn về 12 con giáp với 36 cầm, Tạp chí khoa học, Đại học Thanh Hoa, số 1/1999, tr.13, Trung văn.
(23) Trang Thục Viên (chủ biên): Giáo trình Hán
ngữ, Nxb. KHXH, Bắc Kinh, 2006, tr.122-123,
Trung văn.
TS. Lê Đức Hoàng
Đại học Vinh