Sự hình thành cục diện địa chính trị mới tại Đông Á và vai trò của nước Nga
Viện sỹ Michael
L. Titarenko
Viện Nghiên
cứu Viễn Đông,
Viện Hàn
lâm khoa
học Nga
Tóm tắt: Khu vực Đông Á hiện đang trở
thành một trung tâm mới trong nền kinh tế và chính trị thế giới. Khu vực này liên quan trực tiếp đến sự trỗi dậy của Trung
Quốc và sự thể hiện của nước này trên trường quốc tế với tư cách là một cường
quốc. Tác giả chứng minh sự năng động và tính mâu thuẫn của các quá trình chính
trị xã hội tại khu vực vẫn chưa "yên bình" này trong bối cảnh toàn
cầu hóa và sự thay đổi của toàn bộ hệ thống quan hệ quốc tế, trong bối cảnh
trật tự thế giới do Hoa Kỳ thiết lập sau Chiến tranh Lạnh là quá khứ. Tác giả
đặc biệt chú ý tới vai trò và vị trí của nước Nga tại Đông Á.
Từ khóa: Địa chính trị, châu Á-Thái Bình Dương, Đông Á, trật tự quốc tế, Trung
Quốc, quan hệ đối tác chiến lược, Hoa Kỳ, Nhật Bản, ASEAN
Nghiên cứu
địa chính
trị đã trở thành
việc làm
thường xuyên
trong giới khoa
học. Dường như địa
chính trị được đề cập thường xuyên hơn so với các khái niệm được chấp nhận
trước đây như "chính sách đối ngoại ", "quan
hệ quốc tế", "tình hình quốc tế." Trong khi đó, bản chất của học
thuyết địa chính trị là tình trạng địa lý xác định lợi ích dân tộc và chính
sách của các quốc gia. Song hiện tại, trong bối cảnh toàn cầu hóa
và cuộc cách mạng thông tin, kinh tế, tài chính, thương mại, đầu tư, công nghệ
mới.. lại gắn bó mật thiết với nhau tại tất cả các châu lục. Trung Quốc lại
có kim ngạch thương mại với Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ lớn hơn
nhiều so với nước Nga, nước mà Trung Quốc có 5000 km
đường biên giới chung. Còn về an ninh, các xung đột cục bộ, đương nhiên vẫn
luôn gắn với địa lý. Nhưng nếu xem xét các mối đe dọa của một cuộc chiến tranh
lớn, chưa kể đến hạt nhân thì địa lý ở đây hầu như không đóng một vai trò nào
hết. Các phương tiện chiến lược, tên lửa liên lục địa không nhận ra bất kỳ địa
chính trị nào.
Những năm
gần đây, tình
hình quốc
tế tại khu
vực châu
Á-Thái Bình
Dương đã diễn
ra quá trình
biến đổi sâu
sắc. Những yếu tố quan trọng dẫn
đến sự thay đổi này
là sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, sự nổi lên của một loạt quốc gia đang phát triển khác, ví như sự hồi sinh
sức mạnh của
Nga, nỗ lực
mạnh mẽ của
Nhật Bản để
trở thành
một quốc gia
"bình thường"
không bị
bất kỳ hạn
chế nào
trong lĩnh
vực quân
sự. Tất cả
điều này đang diễn ra trong bối cảnh vị thế của Mỹ trong khu vực suy yếu đáng
kể, bất chấp tuyên bố chính sách "trở lại" châu Á -Thái Bình Dương
của Tổng thống Mỹ Barack Obama.
Bài viết
sẽ đề cập
đến những thay
đổi về địa
chính trị
trong hệ thống
quan hệ quốc
tế tại khu
vực Đông Á những
năm gần
đây.
1. Những
thay đổi kiến tạo trong hệ thống quan hệ quốc tế toàn cầu
Sau sự sụp đổ của Liên Xô, thay
cho hệ thống quốc tế với trung tâm chi phối quyền lực là Mỹ,
một trật tự thế giới mới đa cực hay đúng hơn là đa trung tâm và đa dạng đang
được hình thành. Trong thế giới này,
mặc dù Mỹ vẫn duy trì được vị thế quan trọng,
và trong một lĩnh vực nào đó có vị thế
hàng đầu, nhưng đã không giữ được sự vượt trội rõ ràng như họ từng nắm giữ
trong suốt những năm 1990.
Điều này được thể
hiện qua sự
thất bại trong các
kế hoạch thiết
lập sự thống
trị của Mỹ tại
Afghanistan, Iran, Libya, cũng như cuộc khủng hoảng mới phát sinh trong quan hệ
quốc tế liên quan đến sự
thống nhất Crimea vào nước
Nga và những sự kiện ở Đông Ukraine. Cuộc khủng hoảng đã chứng minh rằng, Mỹ đã
bất lực, không thể đối phó được với mong muốn mang
tính quy luật của các quốc gia mới nổi, đó là khẳng
định quan điểm chiến lược của mình về một trật tự thế giới mới khác với quan
điểm của Mỹ, một thế giới công bằng hơn, dân chủ hơn và sự lựa chọn phát triển
nội bộ của họ.
Một trật tự thế giới mới đang hình thành
với rất nhiều khó khăn sẽ không phải là trật tự thế giới đơn cực hay lưỡng
cực hoặc thậm chí là đa cực, mà là
một trật tự thế giới đa dạng. Sự
khác biệt chính so với thế giới đa cực là ở chỗ các quốc gia phụ thuộc lẫn nhau
ở mức cao chưa từng có, phức tạp hơn và phong phú hơn so với ở châu Âu vào thế
kỷ XX. Trật tự này đem lại cơ hội tuyệt vời cho các nước trong khu vực sử dụng
những đặc thù riêng của mình. Lợi thế, chủ nghĩa thực dụng hình thành nên các
liên minh quốc gia khác nhau về lợi ích nhưng
không dẫn đến sự hỗn loạn như một số chính trị gia Mỹ từng khẳng định, mà ngược
lại mở ra những cơ hội hợp tác và cùng phát triển.
Ngay cả các cơ quan tình báo Mỹ cũng đã đề cập đến
sự kết thúc cận kề của trật tự thế giới xuất hiện sau khi kết thúc Chiến
tranh Lạnh. Báo cáo
dự báo (thứ năm) về xu hướng và viễn cảnh phát triển của thế giới của
cơ quan an
ninh quốc gia
Mỹ (DNI) năm
2012-2013 đã đưa ra dự báo về phát
triển của hệ thống toàn cầu đến năm 2030(1). Đó là qua 15-20
năm nữa, các quốc gia lớn nhất, bao gồm cả Mỹ,
Trung Quốc và các cường quốc khác, sẽ không
đủ khả năng phát
huy ảnh hưởng của mình
trên khắp
toàn cầu. Không một quốc gia nào
trên thế giới, kể cả Mỹ,
về nguyên tắc, có thể trở thành một thế lực bá quyền. “Pax
Americana” hay kỷ
nguyên độc
quyền thống trị của Mỹ trong chính trị thế giới, bắt đầu từ
sự sụp đổ của Liên Xô, sẽ vĩnh
viễn đi vào
quá khứ. Các trung tâm quyền lực mới, trước đây chưa
hề đóng một vai trò quan trọng nào
đang xuất hiện và
mạnh lên
trên trường quốc tế. Giai đoạn toàn cầu hóa hiện tại đã dẫn đến
các tình huống
không thể
đoán định
trước. Đó là
do sự tăng trưởng bùng nổ của lực lượng
sản xuất tại các khu vực mà hàng
thế kỷ trước đây
vẫn còn
lạc hậu, thuộc giai đoạn phát triển tiền công nghiệp. Các
nước đang phát triển trước kia
là các nhà cung cấp nguyên vật liệu và
lao động giá rẻ, hiện nay đã trở
thành công xưởng
của thế giới và là người tiêu dùng chủ
yếu các nguồn tài nguyên năng lượng và thực
phẩm. Sự phân công lao động trước
đây giữa chính quốc
phương Tây và các thuộc địa cũ đã lùi xa vào quá khứ. Ý tưởng về một thế giới
đa cực đã hiện thực hoá dưới
hình thức của nhiều trung tâm quyền lực kinh tế.
Dưới ảnh hưởng của toàn cầu hóa, xu hướng nổi
bật trong quan hệ quốc tế là
hội nhập khu vực hoặc sự kích hoạt của
các quá trình hội nhập tại các
khu vực khác nhau của thế giới. Mặc dù chúng xảy ra chủ yếu ở cấp độ khu vực, nhưng
tự thân
hiện tượng này lại mang tính
toàn cầu và đang trở thành một yếu tố ngày càng quan trọng trong phát triển của
thế giới. Trên
thế giới, gần như không còn quốc
gia nào không là
thành viên của ít nhất một hoặc nhiều tổ chức khu vực.
Toàn cầu hóa và khu vực hóa là những
xu hướng có quan hệ với nhau,
bổ sung cho nhau nhưng
đồng thời lại mâu thuẫn với
nhau. Khu vực hóa tạo
điều kiện để
các nước phát triển tham gia vào toàn cầu hóa một cách
nhẹ nhàng, không cảm thấy quá nhiều áp lực từ các công ty đa quốc gia
hùng mạnh. Khu vực hóa đem
lại nhiều lựa chọn hơn để các
nước đang
phát triển
tránh được
những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa và giữ gìn bản sắc dân tộc. Một
trong những ví dụ thành công nhất về hội
nhập khu vực của các nhóm liên
kết khu vực
bên ngoài châu Âu trong vòng
nửa thế kỷ qua là Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á – ASEAN.
2. Sự chuyển dịch trung tâm kinh tế và chính trị thế giới sang khu vực châu Á - Thái
Bình Dương
Các xu hướng chính trong phát
triển của thế giới đương đại là sự
chuyển dịch chưa
từng có trong
lịch sử trung tâm kinh tế và chính trị thế giới sang khu vực
phía Đông của “châu Á mới”. Báo
cáo nêu trên của cơ quan
an ninh quốc
gia Mỹ cho rằng, đến
năm 2030, châu Á sẽ trở thành
thủ lĩnh
trên trường quốc
tế. Do đó, kỷ
nguyên trỗi dậy lịch sử của
phương Tây sẽ kết thúc.
Khi đó về tác động toàn cầu, dựa vào mức độ
GDP, dân số, quy mô chi phí quân sự, đầu
tư công nghệ, châu Á sẽ vượt qua Bắc Mỹ
và châu Âu, còn Trung
Quốc sẽ trở thành cường quốc kinh tế hàng đầu, vượt qua cả
Hoa Kỳ(2).
Trật tự khu vực tại
Đông Á được thiết
lập sau Chiến
tranh thế giới thứ II và thay đổi vào
đầu những năm 1970, dựa trên hai trụ cột là
sự hoà giải giữa Trung Quốc và Mỹ diễn
ra năm 1972, và hệ thống các liên minh quân sự song phương do
Mỹ đạo diễn
ngay từ đầu những
năm 1950. Thích ứng
với môi trường xung quanh
đã đảm bảo cho
30 năm tăng trưởng liên tục của Trung Quốc, quốc gia
đã hoàn toàn thay đổi cán cân quyền lực tại Đông
Á. Đồng thời, hệ thống các liên minh quân sự do hai
nước tạo ra
đảm bảo cho
Mỹ tự do hàng
hải ổn định
và làm chủ
ở Tây Thái Bình Dương.
Tuy nhiên, trật tự
này có nhiều điểm yếu. Thứ nhất, nó
dựa trên lợi ích chung đấu tranh chống lại Liên Xô. Ngay sau khi Liên
Xô sụp đổ, quan hệ của
Trung Quốc với Mỹ đã bị
đe dọa. Trung Quốc đã không còn là một đối tác chiến lược của
Mỹ và trở nên
“khác” hẳn về ý thức hệ, từ đó nảy
sinh các
vấn đề cần được giải quyết. Ở một ý nghĩa nào
đó, Trung Quốc đã lấp
vào chỗ của
Liên Xô. Thứ hai, toàn bộ hệ thống
các liên minh quân sự của Mỹ tại Tây
Thái Bình Dương là nhằm kiềm chế Trung Quốc đã xuất
hiện vào
những năm 1950. Thứ ba, Trung Quốc từ
lâu vẫn là một sức mạnh hoàn toàn lục địa, còn
Mỹ đã luôn là một cường
quốc hải quân. Ngay
sau khi Trung Quốc tập trung vươn
lên thành
một cường quốc lục địa và cường
quốc biển thì khó có
thể tránh được xung
đột lợi ích với Mỹ và các quốc gia ven biển khác trong khu
vực.
3.
Rủi ro địa chính trị và tiềm năng xung đột ở Đông Á
Cùng với sự chuyển dịch
trung tâm phát triển của kinh tế và chính trị thế giới sang
khu vực châu Á - Thái Bình Dương là sự
chuyển dịch đến
đây cả những mâu thuẫn giữa
các đối thủ hàng đầu trong nền
chính trị thế giới. Cạnh tranh kinh tế giành
giật thị trường, nguồn vốn đầu tư và nguồn
lực trở nên
gay gắt hơn. Sự cạnh
tranh chính trị giành
điều kiện phát triển đối ngoại thuận
lợi, để đảm bảo an ninh, giành uy tín
quốc tế và khả năng ảnh hưởng đến cấu trúc khu vực mới đang
hình thành
cũng gia
tăng.
Tại khu vực vẫn
tồn tại hai mối đe
dọa an ninh. Trước hết
là an ninh
truyền thống với các mối đe dọa quân sự, tranh chấp lãnh
thổ, chạy đua vũ trang, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt. Chính
các nước
Đông Á là những
nước phát
triển tiềm năng
quân sự nhanh nhất. Tổ hợp các mối đe dọa phi truyền thống gồm
khủng bố và cướp biển, tội phạm xuyên quốc gia, thảm họa môi trường và tự
nhiên, thảm họa do con người, buôn bán ma túy, di cư bất hợp pháp, các vấn đề
an ninh lương thực và năng lượng.
Vấn đề đoàn kết dân tộc hay thống nhất
hai bộ phận của Trung Quốc (Trung Quốc
Đại lục và
Đài Loan) vẫn
là một trong những vấn đề phức tạp nhất của
khu vực. Sự lựa chọn các giải pháp có
ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với toàn bộ khu vực
châu Á - Thái Bình Dương. Căng thẳng ở eo biển Đài Loan vẫn còn và
sẽ tiếp tục
trong thời gian
tới. Việc tăng cường
sức mạnh của không quân và hải quân của quân đội Trung Quốc sẽ thay đổi toàn bộ
tình hình tại eo biển Đài Loan và buộc Mỹ cùng với các đồng minh của họ tại Đài
Loan xem xét lại toàn bộ chiến lược quốc phòng của mình.
Quan hệ Trung - Nhật có thể sẽ là nguồn gốc thực sự
của cuộc xung đột. Trung Quốc và Nhật Bản là những đấu thủ chính tại Đông Á. Sự
căng thẳng giữa hai nước liên quan đến tranh chấp quần đảo Điếu Ngư (trong
tiếng Trung) Senkaku (trong tiếng Nhật). Cuộc tranh chấp không chỉ liên quan
đến các nguồn tài nguyên khoáng sản và các tuyến đường biển, mà còn vì uy tín
quốc gia. Tinh thần chống Nhật mạnh mẽ ở Trung Quốc còn gắn liền với ký ức dai
dẳng về những tội ác của quân xâm lược Nhật Bản tại Trung Quốc.
Ngoài ra, tình
hình Đông Bắc Á còn phức tạp bởi những căng thẳng thường xuyên trên bán đảo
Triều Tiên, và mong muốn làm chủ vũ khí hạt nhân của CHDCND Triều Tiên.
Các sự kiện gần đây trong khu vực Đông Nam Á cũng tạo
ra nhiều vấn đề nghiêm trọng. Những mâu thuẫn xung quanh tranh chấp lãnh thổ có
thể dẫn đến xung đột vũ trang đang tăng lên trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng
quyền lực địa chính trị. Quan hệ Trung-Việt trở nên nghiêm trọng bởi cuộc khủng
hoảng mùa hè năm 2014 khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế
của Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa, sự mất tích của máy bay chở khách Malaysia
MH370 ở Ấn Độ Dương chưa được giải quyết, cuộc đảo chính ở Thái Lan, chiến sự
chống lại các dân tộc thiểu số Hồi giáo ở Myanmar, tình trạng bất ổn chính trị
tại Campuchia… Tất cả những sự kiện này cùng với nạn cướp biển ở eo biển
Malacca, các hoạt động khủng bố của lực lượng ly khai ở miền Nam Thái Lan,
Indonesia và Philippines đòi hỏi xem xét lại quan điểm cho rằng khu vực này như
là một ốc đảo của hòa bình và ổn định.
Vấn đề chính
về an ninh tại Đông Á nói chung vẫn là các tranh chấp lãnh thổ tại biển Hoa Đông
và Biển Đông, mà để giải quyết phải cần đến một thời gian dài và ý chí chính
trị của tất cả các bên liên quan. Vấn đề tranh chấp
chủ quyền các đảo và an toàn hàng hải tại Biển Đông hết sức phức tạp bởi phạm
vi mâu thuẫn rộng, với nhiều nước đã tham gia hoặc có khả năng tham gia vào cuộc
tranh chấp lãnh thổ này. Hoa Kỳ và Nhật Bản, những nước có lợi ích chiến lược
và kinh tế quan trọng trong khu vực đã chủ động can dự vào cuộc tranh chấp này.
Việc
gia tăng quân sự tại Biển Đông chắc chắn sẽ dẫn đến các sự cố và xung đột vũ
trang với nhiều khả năng phát triển thành xung đột, mà trong điều kiện nhất
định, có thể mở rộng cả về thành phần lẫn số lượng tham gia cũng như về không
gian bao phủ.
Ở Trung Quốc, Đài Loan, Philippines và Việt Nam, luật pháp
coi các đảo là một bộ phận lãnh thổ quốc gia. Các đảo đã trở thành biểu tượng
quốc gia, thậm chí là điều kiện nhất định cho tính chính danh của chính phủ, và
phải bảo vệ những hòn đảo “bằng mọi giá”. Điều này làm cho tình hình trở nên phức
tạp, khó lường và khó giải quyết.
Một thay đổi lớn trong tình hình địa chính trị tại Đông
Á những năm gần đây là việc sử dụng có chọn lọc và từng phần của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công
ước của Liên hợp quốc năm 1982 về Luật Biển (UNCLOS), và đáng lo ngại hơn là sự
sẵn sàng sử dụng các lực lượng vũ trang để khẳng định quan điểm của mình. Từ
năm 2009, Trung Quốc bắt đầu cho thấy, các lược lượng vũ trang gia tăng mạnh của
Trung Quốc đã đủ khả năng áp dụng “quyền lực cứng”, đầu tiên là chống lại Việt
Nam và Philippines tại Biển Đông, sau đó là chống lại Nhật Bản tại biển Hoa
Đông. Sự leo thang căng thẳng ở cả hai vùng biển đã biến chúng thành các “điểm
nóng” của hành tinh.
(Còn nữa)
Bạn đọc có nhu cầu xin liên hệ với toà soạn
Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc
Phòng 1306 Tầng 13 Số 1 Liễu Giai – Ba Đình – Hà Nội
Điện thoại: 0462730459 – ext:1306
Email: tapchitrungquoc@yahoo.com.vn