Trong thời gian
gần đây, Trung Quốc đã triển khai các máy bay tiêm kích, tên lửa, rada và các
thiết bị quân sự hiện đại trên các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam ở Biển Đông. Đây là bước leo thang mới của Trung Quốc trong việc theo
đuổi chiến lược quân sự hóa Biển Đông nhằm khống chế và tiến tới độc chiếm Biển
Đông. Động thái trên đây đã làm gia tăng lo ngại cũng như căng thẳng khu vực
trái với những thỏa thuận cấp cao hai nước Việt - Trung và cả những hứa hẹn
trong cái gọi là “Kiến nghị 10 điểm” mà Bắc Kinh mới đề xuất tại cuộc họp lần
thứ 47 giữa ASEAN với các đối tác (8-2015).
1. Chuyển từ hợp tác sang cạnh tranh chủ quyền
Theo giới nghiên cứu, để hiện
thực hóa tham vọng “đường lưỡi bò”, Trung Quốc đã xác định 3 mục tiêu, 3 giải
pháp chính. Trong quá trình triển khai chiến lược, Trung Quốc cũng vận dụng
“linh hoạt” các nhận định và kiến nghị của giới nghiên cứu Trung Quốc sao
cho có “hiệu quả”. Năm 2014, Trung Quốc
lại đưa giàn khoan đến vùng biển thuộc thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt
Nam, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, thỏa thuận DOC, thỏa thuận cấp cao
hai nước…
Chủ trương “hợp nhất khu vực”
Trung Quốc -
ASEAN được lãnh đạo Trung Quốc coi là một ưu tiên hàng đầu,
nhằm thực thi một phần trong chính sách “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc. Sự
hợp nhất khu vực bao gồm cả chính trị và kinh tế.
Để tập trung năng lực trong
nước cho sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững, Trung Quốc đã trải qua giai
đoạn “tạm ngưng chiến lược”, tránh đối đầu bằng sức mạnh. Chiến lược này được thực
hiện từ cuối những năm 1990 đến năm 2007 và đã đạt được những tiến bộ lớn vào
thời kỳ đó. Trung Quốc đã được các nước Đông Nam Á hoan nghênh và coi đó là yếu
tố thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế toàn khu vực, làm đối trọng với các cường quốc
bên ngoài bao gồm cả Mỹ.
Vào thời kỳ đó, Trung Quốc
thúc đẩy hàng loạt mối quan hệ với ASEAN. Thành công nhất là các chương trình
phát triển kinh tế, thương mại và cơ sở hạ tầng. Thương mại hai chiều tăng mạnh
từ khoảng 8 tỷ USD năm 1991 lên 106 tỷ USD năm 2004 và 231 tỷ năm 2008. Trong
khi đó, thương mại giữa các nước ASEAN và Mỹ trong cùng năm chỉ đạt 172 tỷ USD.
Trung Quốc đã tập trung hỗ trợ cho dự án hành lang kinh tế Nam Ninh - Singapore,
với hệ thống vận tải bằng đường sắt xuyên khu vực nối Nam Ninh - Hà Nội - Thành
phố Hồ Chí Mính - Phnôm Pênh, Băng Cốc - Kuala Lumpur - Singapore; Dự án hợp
tác tiểu vùng sông Mê Kông nối Côn Minh, Vân Nam, Trung Quốc - Singapore; Dự án
vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ và sáng kiến Hải Nam. Tuy nhiên, các chương trình
này phải đối mặt với nhiều thách thức vì liên quan đến các khu vực mà ở đó chủ
quyền và quyền tài phán vẫn nằm trong tranh chấp.
Một số nhà bình luận Trung Quốc cho
rằng, mục tiêu trên phản ánh một chiến lược “quả chín” nằm trong tay Trung Quốc,
“nếu Trung Quốc tiếp tục áp đặt các yêu sách mở rộng của họ ở Biển Đông một
cách đầy gây hấn thì các hòn đảo và không phận trên biển tương ứng của chúng có
thể sẽ dễ dàng rơi vào tay họ như những quả chín. Ít nhất thì Trung Quốc cũng sẽ
chi phối vấn đề này và giành được phần của kẻ mạnh trong bất kỳ giải pháp nào”.
Một số học giả Trung Quốc
khác lại cho rằng, mục đích đầu tư lớn của Trung Quốc cùng với chính sách đóng
băng tranh chấp của họ là để giành được lực hút, hay đòn bẩy và sẽ dẫn đến sự từ
bỏ tự nguyện các yêu sách về Biển Đông của các nước khác. Tuy nhiên, các sự kiện
sau đó cho thấy, các nước Đông Nam Á đã không muốn cường quốc nào giành quá nhiều
ảnh hưởng trong khu vực. “Giờ đây. ASEAN đã chuyển từ hoan nghênh sự can dự của
Trung Quốc vào khu vực sang mời gọi sự chú ý của các cường quốc bên ngoài, nhằm
tạo ra sự cân bằng ảnh hưởng trong khu vực. Vì thế, theo giới phân tích, giàn
khoan Hải Dương 981 được khởi động vào trước thềm Hội nghị Cấp cao ASEAN là nhằm thúc đẩy quan điểm của tổ chức
này rõ ràng hơn đối với chiến lược hợp nhất khu vực của Trung Quốc”.
Chính sách “kiểm soát tài
nguyên” là mục tiêu theo đuổi của Trung Quốc nhằm nâng cao an ninh tài nguyên và
bảo đảm sự kiểm soát hầu hết tài nguyên sinh vật và vi sinh vật ở Biển Đông. Một
nhà bình luận Trung Quốc nói: “Dân tộc Trung Quốc đang phải đối mặt với thách
thức lớn nào? Đó chính là vấn đề tài nguyên”. Tài nguyên cá cũng rất quan trọng
đối với Trung Quốc. Một ấn phẩm của Chính phủ Trung Quốc viết: “Hiệp định đánh
bắt cá Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam
và Trung Quốc đã thu hẹp đáng kể không gian đánh bắt của ngư dân Trung Quốc. Những
thỏa thuận như vậy không chỉ làm xấu thêm tình hình mà còn có khả năng gây ra sự
bất ổn định xã hội ở nhiều làng mạc và thị trấn ven biển”. Có thể nói, biển chắc
chắn sẽ trở thành một vũ đài quan trọng đối với các cuộc đấu tranh quốc tế về
chính trị, kinh tế và quân sự, cũng là một mục tiêu quan trọng trong cuộc đấu
tranh của bất kỳ quốc gia nào cho quyền và lợi ích của họ. Với Trung Quốc, mục tiêu
quan trọng của họ là phải bảo đảm được sự tiếp cận và kiểm soát được các nguồn
tài nguyên ở Biển Đông trong tương lai.
Những động thái của Trung
Quốc trong thời gian qua như: Công bố đường “lưỡi bò” (2010), cắt cáp tàu Bình
Minh 02 của Việt Nam (2012), sự kiện Bãi Cỏ Mây ở Philippines (2013) và hạ đặt
trái phép giàn khoan Hải Dương 981 (2014) là nằm trong chuỗi các vấn đề tư duy
và tham vọng kiểm soát tài nguyên Biển Đông của Trung Quốc.
Chính sách “an ninh nâng
cao”, là mục tiêu thứ 3 của Trung Quốc nhằm bảo đảm sự kiểm soát của họ đối với Biển Đông, tạo
ra một vùng đệm an ninh biển để bảo vệ các trung tâm dân số lớn thuộc các vùng
công nghiệp và văn hóa khu vực duyên hải phía Đông của Trung Quốc. Một viên tướng
nghỉ hưu của Trung Quốc đã coi: “Khu vực biển của Trung Quốc là rào chắn chiến
lược thứ nhất đối với an ninh nội địa. Khu vực duyên hải là tiền tuyến của sự
tăng trưởng trong quá trình phát triển kinh tế và xã hội của Trung Quốc. Nếu
phòng thủ bờ biển rơi vào vòng nguy hiểm thì những khu vực trung tâm quan trọng
về kinh tế và chính trị đứng trước các mối đe dọa từ bên ngoài… Vì thế, khu vực
duyên hải là cửa ngõ của an ninh quốc gia tổng thể của Trung Quốc”.
Trung Quốc cần phải kiểm
soát các vùng biển duyên hải căn cứ vào cách tiếp cận địa chiến lược của một nước
có nhiều quan ngại an ninh liên quan đến cả biển và đất liền. Những nước này
thường theo các chiến lược an ninh vốn cân bằng sức mạnh trên bờ và trên biển,
nhằm phát triển các vòng tròn đồng tâm của sự kiểm soát chiến lược, ảnh hưởng
và vươn tới xung quanh khu vực trung tâm mang lợi ích quốc gia thiết yếu của họ.
Vì vậy, Biển Đông, biển Hoa Đông và Hoàng Hải là những khu vực mà các chiến lược
gia Trung Quốc cho là cần phải phát triển kiểm soát quân sự, để loại bỏ các mối
đe dọa từ bên ngoài và qua đó nâng cao mức độ an ninh của khu vực duyên hải của
Trung Quốc.
Theo giới phân tích, những
hành động gần đây cho thấy, Trung Quốc đang thể hiện ý định nâng cao an ninh của
họ bằng cách cạnh tranh với các bên yêu sách khác về chủ quyền, quyền tài phán
và quyền kiểm soát đối với Biển Đông. Theo giới quan sát, ngay từ năm 2009,
Trung Quốc đã hợp nhất các mục tiêu chiến lược: hợp tác khu vực, hợp tác tài
nguyên sang cạnh tranh về chủ quyền và an ninh. Trung Quốc đã “phớt lờ” lợi ích của các nước
khác.
Một khuynh hướng trong giới
nghiên cứu Trung
Quốc cho rằng: “Sự hợp tác trong quá khứ đã tạo ra những kết quả to lớn,
song sự chuyển hướng của Trung Quốc từ hợp tác sang cạnh tranh gần đây có khả
năng sẽ không đưa lại kết quả tốt đẹp. Theo họ, những giải pháp đôi bên cùng có
lợi sẽ hứa hẹn nhiều hiệu quả hơn so với những giải pháp “5 ăn 5 thua” vốn dựa
trên sự cạnh tranh về chủ quyền, quyền tài phán và quyền kiểm soát. Vì thế, việc
Trung Quốc
đưa giàn khoan HD981 đến vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam
không những bị Việt Nam và quốc tế lên án mà còn gặp phải sự không đồng tình của
các nhà nghiên cứu và những người chân chính trong nhân dân Trung Quốc”.
2.Quân
sự hóa được coi là giải pháp “linh hoạt”
Tuy nhiên, độc chiếm Biển
Đông từ tham vọng “kín đáo” của Bắc Kinh,
nay đã trở nên “trắng trợn” hơn. Với
một nước lớn có GDP đứng thứ 2 thế giới, Trung Quốc luôn muốn có vai trò lãnh đạo
khu vực và cạnh tranh vị thế toàn cầu với Mỹ, nên Trung Quốc đang thực hiện cái gọi là “kiềm chế”. Theo giới
quan sát, hiện nay tại Trung Quốc cũng đang có nhiều cuộc tranh luận sôi nổi
làm thế nào để theo đuổi các “cốt lõi” lợi ích của Trung Quốc ở Biển Đông một cách tốt nhất và phần lớn đều không
hài lòng với nguyên trạng hiện nay, nên cần phải tạo ra “vùng sở hữu chung”. Thực
chất của quan điểm này là biến sở hữu của nước khác thành “sở hữu chung”.
Một số học giả Trung Quốc cho
rằng, Bắc Kinh nên thực hiện “kiềm chế”, một số khác lại đề xuất các yêu sách
khác nhau như: “Chủ động khai thác các nguồn tài nguyên ở những vùng nước tranh
chấp”. Một số nhà nghiên cứu có trách nhiệm như Giáo sư Lý Lệnh Hoa lại khuyến
cáo Bắc Kinh nên tuân thủ luật pháp quốc tế. Hiện nay, trong các giới chức
Trung Quốc cũng xuất hiện hai luồng tư tưởng về “quân sự hóa”, có ý kiến cho rằng,
“quân sự hóa chỉ làm tồi tệ thêm các cuộc tranh chấp, cải thiện và làm mạnh mẽ
thêm các khả năng thực thi dân sự của Trung Quốc mới là giải pháp bảo vệ tốt nhất
các lợi ích của họ. Việc đưa giàn khoan HD981 hoạt động trong vùng thềm lục địa
và đặc quyền kinh tế của Việt Nam
năm 2014 là đi theo hướng này. Tuy nhiên, việc bồi đắp mở rộng các đảo của Việt
Nam mà Trung Quốc chiếm đóng trái phép năm 2015 đã thể hiện sự thắng thế của giới
chức quân sự Trung Quốc. Việc “quân sự hóa” các đảo nói trên đã được tiến hành
và họ vẫn coi đây là giải pháp “linh hoạt” trong giai đoạn mà các nhà hoạch định chiến lược biển của
Trung Quốc gọi là “cạnh tranh chủ quyền”.
Cho đến nay, tình báo Mỹ đã
phát hiện Trung Quốc triển khai gần chục máy bay tiêm kích thế hệ thứ 4 Shenyang
(Thẩm Dương) J-11 và máy bay tiêm kích-ném bom Xian (Tây An) JH-17 trên đảo Phú
Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (bị Trung Quốc xâm chiếm bằng vũ lực
năm 1974). Hoạt động này của máy bay chiến đấu Trung Quốc “diễn ra thường
xuyên”.
Trước đó, Trung Quốc còn triển
khai 2 khẩu đội tên lửa phòng không hiện đại nhất của nước này HQ-9 (tương
đương như S-300 của Nga), gồm 8 ống phóng tên lửa đi kèm radar tới đảo Phú Lâm.
Với việc triển khai máy bay chiến đấu, tên lửa phòng không hiện đại tới khu vực
này, họ có thể khống chế cả một vùng rộng lớn trên Biển Đông. Trung Quốc đang
xây dựng những hòn đảo mà nước này chiếm đóng trái phép ở Biển Đông thành những
căn cứ quân sự lớn. Giới phân tích quân sự cho rằng, sau tên lửa phòng không,
máy bay, radar… Trung Quốc có thể sẽ triển khai các vũ khí hiện đại hơn cùng với
việc lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ), tiếp theo có thể sẽ là tên lửa hạm đạo
để kiểm soát hoàn toàn vùng biển rộng lớn.
Trung tâm Nghiên cứu Chiến
lược và Quốc tế (CSIS) đã công bố những hình ảnh vệ tinh cho thấy, Trung Quốc
đang bố trí một hệ thống radar tần số cao mới trên đảo đá Châu Viên, một trong
7 bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng trái
phép rồi tiến hành bồi đắp, cải tạo quy mô lớn thành đảo nổi nhân tạo.
Theo giới quan sát, rõ ràng
mục đích sâu xa từ những hoạt động triển khai, bố trí trang bị vũ khí của Trung
Quốc ở đảo Phú Lâm cũng như các hòn đảo, bãi đá chiếm đóng phi pháp trên Biển
Đông là nhằm hiện thực hóa mưu đồ khống chế tiến tới độc chiếm Biển Đông. Đẩy mạnh
quân sự hóa Biển Đông nhằm giành ưu thế vượt trội, Trung Quốc đã leo lên nấc
thang mới nguy hiểm, sẵn sàng dùng vũ lực để hiện thực hóa yêu sách chủ quyền
trên Biển Đông. Những hành động gây hấn liên tiếp gia tăng căng thẳng cũng như
ý đồ độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc đã bị dư luận thế giới vạch rõ và lên
án.
Trả lời câu hỏi của nhiều
phóng viên trong nước và quốc tế về phản ứng của Việt Nam, ngày 19-2-2016 Người
phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình nhấn mạnh: “Việt Nam hết sức quan
ngại về các hành động nói trên của Trung Quốc. Đây là những hành động xâm phạm
nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, đe dọa hòa bình
và ổn định trong khu vực cũng như an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng
không ở Biển Đông. Việt Nam
yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hành động sai trái đó”. Việt Nam cũng đồng
thời gửi công hàm đến Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội để phản đối và có Công
hàm gửi Tổng Thư ký Liên hợp quốc đề nghị cho lưu hành như văn bản chính thức.
(Còn nữa)
Bạn đọc có nhu cầu xin liên hệ với toà soạn
Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc
Phòng 1306 Tầng 13 Số 1 Liễu Giai – Ba Đình – Hà Nội
Điện thoại: 0462730459 – ext:1306
Email: tapchitrungquoc@yahoo.com.vn