Trước tác động mạnh mẽ của nhiều nhân tố mang tính khu vực
và toàn cầu, gần đây phát triển kinh tế bền vững đã và đang trở thành mục tiêu
được nhiều quốc gia theo đuổi, trong đó có Việt Nam. Thực hiện mục tiêu phát triển
bền vững, Nhà nước ta chủ trương coi trọng hơn, quan tâm đầu tư nhiều hơn cho giáo
dục đào tạo. Nhiều trường đại học lớn (như đại học Kinh tế, đại học Quốc gia Hà Nội và một số trường khác) đã đưa ra mục tiêu trong
10-12 năm tới sẽ trở thành một trong những trường đại học hàng đầu Việt Nam và có đưa tên vào danh sách các trường đại học có uy tín trong
khu vực và thế giới. Tìm hiểu kinh nghiệm của Trung Quốc từ đổi mới chính sách giáo
dục và mô hình đào tạo đại học đến xây dựng các trường đại học đẳng cấp quốc tế là mục
tiêu của bài viết.
I. Đổi mới chính sách giáo dục và mô hình đào tạo
đại học ở Trung Quốc
Sự phát triển nhanh của kinh tế Trung Quốc từ
năm 1978, đặc biệt là giai đoạn từ đầu những năm 1990 - khi Trung Quốc chủ trương
phát triển kinh tế thị trường - đến nay đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu cải cách,
đổi mới chính sách giáo dục ở nước có dân số lớn nhất thế giới này. Gần đây, khi mà vấn đề chất
lượng tăng trưởng được Trung Quốc đề cao thì giáo dục càng được coi trọng.
Các chính sách giáo dục trước kia đều phục vụ vận hành mô
hình đào tạo đại học cũ. Mô hình này có mấy đặc trưng như: 1/ Trong một thời gian dài cơ cấu môn học
không thay đổi. 2/ Các môn học nặng về đào tạo lý thuyết, thiếu thực tiễn. 3/ Hạn chế
khả năng sáng tạo của cả thày và trò. 4/ Cán bộ giảng viên trong nhiều trường đại học hầu chư chỉ có giảng
dạy mà không tham gia nghiên cứu, người học lại càng ít có cơ hội tham gia nghiên
cứu sâu, đặc biệt là nghiên cứu các vấn đề mới đang đặt ra trong đời sống kinh tế xã hội. 5/ Kinh phí cho đào tạo hầu như chỉ chờ
vào nhà nước. 6/ Thiếu mối quan hệ hợp tác liên kết giữa các trường đại học với nhau cũng như mối
liên kết giữa các trường đại học với các doanh nghiệp. Trước những dòi hỏi cấp
thiết của thực tiễn, mô hình này ngày càng bộc lộ nhiều bất cập.
Cho đến nay, hệ thống giáo dục ở Trung Quốc
gồm có 2 phần và 4 cấp. Hai phần là giáo dục phổ cập và giáo dục nghề nghiệp. Bốn
cấp là: 1/ Giáo dục mầm non. 2/ Giáo dục tiểu học. 3/ Giáo dục trung học 4/ Giáo
dục đại học và sau đại học. Trẻ em từ 3 đến 6 tuổi theo học giáo dục mầm non. Trẻ
từ 6 đến 12 tuổi theo học giáo dục tiểu học. Giáo dục trung học dành cho lứa tuổi
12-18 chia thành 2 cấp: cấp sơ trung 3 năm, và cao trung 3 năm tiếp theo. Giáo dục
đại học có 3 loại: đại học ngắn hạn, đại học chính quy và sau đại học. Học viên
sau đại học đều gọi là nghiên cứu sinh, trong đó có nghiên cứu sinh thạc sỹ và nghiên
cứu sinh tiến sỹ. Học hết trung học, nếu không vào được đại học thì học viên có
thể theo học chương trình trung học chuyên nghiệp và kỹ thuật, thực chất là học
nghề trước khi đi làm một nghề nào đó. Như vậy, giáo dục đại học là bộ phận quan trọng trong hệ thống giáo
dục vì sản phẩm của bộ phận này là phần tinh hoa nhất, được tranh bị nhiều kiến mới thức mới nhất, rất
có ý nghĩa đối với phát triển đất nước.
Sự phát triển kinh tế nhanh ở Trung Quốc trong
30 năm cải cách mở cửa đã đặt ra những yêu cầu mới cho ngành giáo dục đại học: sử dụng tốt hơn,
có hiệu quả hơn cơ sở vật chất, khai thác các nguồn lực đầu tư cho đào tạo, đồng thời sản phẩm đào tạo phải là các cán
bộ có trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật cao, biết sáng tạo và dám nghĩ dám làm.
Tất cả các biện pháp cải cách mà các trường đã và đang thực hiện đều trực tiếp và
gián tiếp phục vụ mục đích đào tạo được nhiều nhân tài đáp ứng các nhu cầu cấp thiết
của xã hội. Đổi mới chính sách giáo dục và mô hình đào tạo đại học ở Trung Quốc
trong 30 năm qua được thấy ở những khía cạnh chính sau đây:
1. Chấn chỉnh, sắp xếp lại hoạt động ở
các trường đại học
Từ đầu những năm 1990, Trung Quốc chính thức theo đuổi mục tiêu phát triển
kinh tế thị trường, điều này đặt ra yêu cầu phải thay đổi, cải cách trong các
trường đại học ở nước này. Vào thời gian đó, hầu như tất cả các trường đại học và cao đẳng
ở Trung Quốc đều được chấn chỉnh, lập lại kế hoạch, sắp xếp các hoạt động phù hợp
với nhu cầu của kinh tế thị trường và phát triển khoa học kỹ thuật, với những nội
dung chính như sau:
1/ Bỏ các khóa học, môn
học không cần thiết, ít sinh viên theo học. Nhiều trường đã đổi mới chương trình giảng dạy, thay
đổi cơ cấu các môn học, bỏ các môn học trùng lặp, ít học sinh theo học, đưa thêm
vào các môn mới đáp ứng các yêu cầu cấp thiết của xã hội.
2/ Biên soạn sách giáo khoa mới, đưa thêm vào chương trình
đào tạo các môn học như: tài chính, quản lý, luật và tin học nhằm đáp ứng các yêu
cầu cấp thiết của công cuộc hiện đại hóa
đất nước. Trong cải cách và xây dựng các môn học mới, các trường luôn hướng vào
mục tiêu phục vụ việc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Trong những năm cuối
thập niên 1990, cơ cấu kinh tế nông thôn Trung Quốc thay đổi rất mạnh mẽ, các trường
đại học nông nghiệp đều củng cố, làm giàu thêm các nội dung giảng dạy để đáp ứng
các yêu cầu cao hơn về khoa học kỹ thuật nông nghiệp hiện đại.
Trên cơ sở của 2 yêu cầu như trên, năm
1993, Uỷ ban giáo dục nhà nước Trung Quốc đã công bố “Danh sách các khoa chuyên
môn cho các trường đại học và cao đẳng hệ chính quy”. Số chuyên khoa lúc đầu là
813, sau đó giảm còn 504. Kể từ cuối năm 1994, Uỷ ban giáo dục nhà nước Trung Quốc
tiếp tục thực hiện “Kế hoạch cải cách nội dung giảng dạy cho thế kỷ XXI” gồm 60
- 70 đề án. Uỷ ban cũng lập kế hoạch biên soạn 300- 400 bộ sách giáo khoa mới và
xây dựng đội ngũ chuyên gia trong nhiều lĩnh
vực cùng giải quyết các khó khăn trong quá trình cải cách.
3/ Kết hợp việc giảng dạy với nghiên cứu, gắn
kết giữa khoa học với kỹ thuật, chăm lo bồi dưỡng và đào tạo cán bộ cho các ngành
khoa học mới, các ngành mũi nhọn.
4/ Thuê chuyên gia giỏi
người nước ngoài vì mục đích đào tạo của trường. Ngày càng nhiều các trường đại học ở Trung Quốc thuê
chuyên gia, giảng viên nước ngoài vào làm việc phục vụ mục tiêu nâng cao chất lượng
đào tạo của trường. Việc các giáo viên nước ngoài giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng ở Trung Quốc rất phổ
biến kể từ đầu những năm 2000. Cho đến nay, trong số các trường tuyển nhiều giảng
viên nước ngoài và trả thù lao cao cho họ phải kể đến là: đại
học Hồng Kông, đại học Macao, đại học giao thông Thượng Hải,
đại học Thẩm Quyến, đại học Bắc Kinh, đại
học Triết Giang, đại học Hạ Môn... Có trường
trả lương cho giáo viên nước ngoài lên đến vài ngàn USD/ tháng.
2. Đẩy mạnh hợp tác giữa các trường đại học
với các doanh nghiệp và hợp tác giữa các trường đại học với nhau - một hướng đi phù hợp với thực tiễn Trung Quốc
Đất nước Trung Quốc rộng lớn, mỗi địa phương, mỗi tỉnh có
điều kiện riêng, do vậy áp dụng theo một khuôn mẫu chung là rất khó. Một khía
cạnh đáng quan tâm trong giáo dục đại học là cải cách diễn ra theo hướng thay
đổi chức năng của Chính phủ từ “đảm
bảo mọi thứ cho trường học” sang “kiểm soát và điều phối vĩ mô”.
Theo hướng này, các trường đại học và cao đẳng ở Trung Quốc không còn dựa hoàn toàn vào việc
phân bổ tài chính cũng như mọi quyết định của Chính phủ nữa mà họ phải tự tìm kiếm
các phương thức hoạt động và phát triển mới dựa theo các điều kiện của riêng mình.
Do vậy, việc liên kết, hợp tác cùng hỗ trợ lẫn nhau giữa các trường đại học cũng như giữa các trường
đại học với các tổ chức khác là một phương thức mới, có hiệu quả trong cải cách
hệ thống các trường đại học. Trên thực tế ở Trung Quốc đã diễn ra các
hình thức hợp tác sau đây:
2.1. Hợp tác giữa các trường đại học với các
cấp chính quyền trung ương và địa phương để tăng nguồn tài chính xây dựng trường
lớp và bổ sung đội ngũ cán bộ chính quyền.
Để mở rộng các kênh phục vụ, chính quyền các cấp
ở cả trung ương và địa phương Trung Quốc cùng tham gia xây dựng và đóng góp cho hoạt động của các trường đại học. Năm 1997, Trung Quốc có 327 cơ sở đào tạo sau đại học đặt đưới sự chỉ đạo của các bộ thuộc Chính
phủ. Trước đó, hoạt động của các cơ sở này chỉ thông qua một kênh, thiếu điều kiện để phát triển. Cuối những
năm 1990, có vài chục trong số các cơ sở trên đã đổi mới trong đó kết hợp quản lý, kết hợp đóng góp các nguồn lực của
cả chính quyền trung ương và địa phương. Nhờ đó hoạt động đào tạo gắn liền với nhu cầu của địa phương hơn, nguồn tài
chính cũng phong phú hơn. Hiệu quả đào tạo tăng lên, nhiều cơ sở khác cũng làm theo.
Điển hình trong thời kỳ này là trường hợp trường Đại học Hàng không và Vũ trụ Bắc Kinh. Trường đã thành lập phòng thí
nghiệm cho một số trường đại học, cao đẳng, các viện nghiên cứu và xí nghiệp của Bắc Kinh.
Trường còn mở một số khoá học đào tạo cán bộ mà Bắc Kinh đang thiếu. Bắc Kinh cũng
trợ giúp một số hoạt động cải tạo và xây dựng mới trường này, giúp trường
tuyển dụng cán bộ có năng lực để giải quyết các vấn đề khoa học cho một số
xí nghiệp địa phương.
2.2. Hợp tác giữa các trường đại học với các
doanh nghiệp và các tổ chức xã hội để cùng sử dụng các lợi thế chung, gắn học với
hành, gắn lý luận với thực tiễn.
Trong những năm 1990, Đại học Bách khoa Tứ Xuyên
đã từng thiết lập quan hệ hợp tác với 160 xí nghiệp lớn và vừa. Từ những năm
cuối thập kỷ 1980, trường này đã ký cam kết hợp tác với hơn 60 cơ quan ở nhiều
địa phương. Nhờ đó đã thu được kết quả cao trong đào tạo cán bộ, trong tư vấn và giải quyết các
vấn đề kỳ thuật và phát triển sản phẩm mới. Ban lãnh đạo của trường chịu trách nhiệm lập các kế hoạch
tổng thể về cải cách, xây dựng và phát triển của trường, đồng thời đưa ra các mục tiêu, nhiệm
vụ và đề xuất các biện pháp thực hiện. Tham gia trong ban lãnh đạo trường có cả lãnh đạo của một vài xí nghiệp
và tổ chức xã hội.
Đại
học Thanh Hoa đã có sự cộng tác với
nhiều công ty đa quốc gia (MNC) trong hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D). Hợp tác
giữa đại học Thanh Hoa và các MNC được đẩy mạnh trong giai đoạn từ sau năm 1993, sau khi Trung Quốc công bố
“Luật khoa học và công nghệ của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa”. Luật này khuyến khích
đẩy mạnh các hoạt động hợp tác R&D giữa các viện nghiên cứu, các
trường đại học Trung Quốc với đối tác nước ngoài. Hưởng ứng luật mới này, đại học Thanh Hoa đã đưa ra kế hoạch 27 năm
với 3 giai đoạn hợp tác (1993-2020). Hai giai đoạn đầu mục tiêu đưa ra là đến năm 2011 được công nhận là trường đại học đẳng cấp quốc tế. Từ năm
1996 đại học Thanh Hoa đã có 155 dự án cộng tác về R&D với các công
ty đa quốc gia, số vốn cam kết đạt 803 ngàn USD, trong đó số vốn thực tế đã nhận đuợc là 387.000 USD. Đến năm 2003, các số liệu
tương ứng về số dự án, số vốn cam kết và vốn thực tế nhận được là 180; 1814.000 USD
và 985.000 USD. Lĩnh vực hợp tác giữa đại học Thanh Hoa với các MNC nước ngoài cũng được mở rộng hơn, từ chỗ
chỉ tập trung ở một số khoa như cơ khí, xây dựng... đã mở rộng ra các khoa khác như: Cơ khí điện tử, khoa học máy tính,
hạt nhân và năng lượng mới, cơ nhiệt và cơ khí chế tạo. Tổng số vốn mà đại học Thanh Hoa cam kết cùng
với các MNC trong R&D trong 4 năm 2000-2003 đã lên đến 29.3 triệu USD.
2.3. Hợp tác giữa các trường đại học với nhau
để phối hợp cùng sử dụng các nguồn lực như cán bộ giảng dạy, lớp học, thư viện...
cũng như nâng cao chất lượng dạy và học.
Hệ thống cũ trong đó các trường đại học biệt lập nhau về hoạt động, trong cơ cấu khép kín
dẫn đến tình trạng một số trường
thừa thầy, có vốn nhưng diện tích nhỏ không biết đầu tư vào đâu còn một số trường không đủ thầy lại thiếu kinh
phí giảng dạy và nghiên cứu. Điều này dẫn đến chất lượng, hiệu quả đào tạo thấp.
Khắc phục tình trạng trên, nhiều trường đại học, cao đẳng ở Trung Quốc đã liên kết, hợp tác với
nhau để cùng sử dụng các thế mạnh của nhau và tăng hiệu quả đào tạo. Có thời gian,
6 trường đại học ở Quảng Châu đã hợp tác, cùng điều phối chung các cán bộ giảng dạy, sử dụng chung
các thư viện, phòng thí nghiệm và phối hợp cùng giải quyết các nhiệm vụ đào tạo. Với một số môn,
sinh viên theo học có thể chọn danh mục nhiều hơn các khoá học ở 6 trường. Tương tự, ở Bắc kinh, 5 trường là: trường May mặc,
trường Tài chính, trường Ngoại thương, trường Công nghiệp hoá học, trường Y học
dân tộc cũng có cơ chế hợp tác chặt chẽ. Xu hướng này đã khuyến khích các lực
lượng xã hội cùng tham gia xây dựng và quản lý trường học, cùng tìm ra các kênh
huy động tài chính để tăng hiệu quả đào tạo.
3.
Đào tạo các nhà khoa học đầu ngành
Những năm 1990 là thời kỳ quan trọng trong xây
dựng và phát triển kinh tế Trung Quốc. Cho nên Trung Quốc cần có nhiều các nhà khoa
học trẻ tuổi, có năng lực, có tri thức mới để nắm các cương vị chủ chốt. Các trường
đại học và cao đẳng đều đặc biệt coi trọng điều này, họ đã cân nhắc, bổ nhiệm nhiều
cán bộ trẻ vào những chức vụ xứng đáng.
Đồng thời, để khuyến khích các giáo viên trẻ
thực sự trở thành lực lượng trụ cột trong các ngành khoa học, tất cả các trường
đều cải tiến các hình thức kiểm tra, đánh giá và tạo ra nhiều cơ hội cho lớp trẻ
được thử thách, rèn luyện họ thông qua các khoá học giảng dạy mở rộng, nâng cao
trong các trường nổi tiếng hoặc tại các viện nghiên cứu ở nước ngoài.
Nhiều trường đại học được sự đồng ý và hỗ trợ
của Chính phủ đã thành lập nhiều quỹ làm phần thưởng cho các học giả trẻ tuổi. Đó
là “Quỹ thưởng cho các tài năng của thế kỷ XXI”, “Quỹ tài năng xuyên thế kỷ”, “Trợ
cấp cho các nghiên cứu sinh” hay “Phần thưởng cho các nhà khoa học trẻ”. Bên cạnh
đó, các trường đại học đều có chính sách ưu tiên trong phân phối nhà ở để động viên
các tài năng trẻ.
Tất cả những cải cách, đổi mới chính
sách giáo dục và mô hình đào tạo đại học trên đây là cơ sở quan trọng để Trung Quốc thực hiện
mục tiêu xây dựng các trường đại học của họ thành những trường đại học đẳng cấp quốc tế.
II. Xây dựng các trường đại học
đẳng cấp quốc tế.
1. Những nỗ lực ban đầu
Đáp ứng yêu cầu nguồn nhân
lực cho sản xuất và phát triển, trong 30 năm qua, số trường đại học, cao đẳng của
Trung Quốc tăng rất nhanh. Năm 1978, cả nước Trung Quốc chỉ có 1,2 triệu sinh viên
đại học. Đến cuối năm 1995, Trung Quốc có hơn 1000 trường đại học và cao đẳng. Đến cuối năm 2004, cả nước Trung Quốc có 2236 trường
đại học và cao đẳng (so với con số gần 400 trường của Việt Nam) với hơn
20 triệu sinh viên theo học. Số sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học đạt hơn
6 triệu năm 2008.
Quá trình xây dựng các trường đại học đẳng cấp quốc tế ở Trung Quốc được khởi động từ đầu những năm 1990 và được đẩy nhanh từ đầu những năm 2000. Năm 1991, Trung Quốc lập “dự án
211”, với mục tiêu đưa 100 trường đại học vào danh sách các trường tiên tiến nhất
của thế giới. ít nhất Trung Quốc có một số trường đạt đẳng cấp quốc tế vào trước năm 2020.
Việc thực hiện dự án bắt đầu từ tháng 2-1993. Có
10 trường đại học được cung cấp tài chính bổ sung từ Dự
án trọng điểm Quốc gia (tức Dự án 211) là: Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa,
Đại học Phúc Đán, Đại học Giao thông Thượng Hải, Đại học Giao thông, Đại học Bách
khoa Trung Quốc, Đại học Y khoa Bắc Kinh, Đại học
Nhân dân, Đại học Sư phạm Bắc Kinh, Đại học Nông nghiệp Trung Quốc. Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa được xem là hai trường hàng đầu trong số các
trường trọng điểm. Hai trường này nhận được khoản ngân
sách lớn trị giá hơn 200 triệu USD, thực hiện trong 3 năm, để thực hiện các mục tiêu trở thành trường đại học đăng cấp quốc tế .
Bảng 1: Nguồn vốn đầu tư vào các cơ sở đào tạo đại học công lập, 2001, %
Chính quyền trung ương
|
Chính quyền tỉnh
|
Từ vốn của trường
|
Đóng góp tự nguyện của các cá nhân
|
Nguồn trường tự khai thác
|
Các nguồn khác
|
11
|
6
|
41
|
3
|
22
|
17
|
Nguồn: Yuan Fujie, Expansion and Evolution through marketization Chinese
Higher Education since 1998. National Institute for Multimedia education and Graduate
university for Advanced studies
Ngoài nguồn tài chính do nhà nước cung
cấp, Trung Quốc khuyến khích chính quyền địa phương tạo
điều kiện hỗ trợ tài chính để các trường
đại học thực hiện được mục tiêu quốc
gia. Năm 1995, Chính quyền Thượng Hải đã đóng góp cho các
trường Đại học Giao thông Thượng Hải và Đại học Phúc Đán
mỗi trường tương đương 15 triệu USD
để cải thiện điều kiện giảng dạy và nghiên cứu. Bên
cạnh đó, Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện các nỗ lực tái cấu trúc các trường đại học và
coi đó như một biện pháp nâng cao hiệu quả của các trường phục vụ cho việc xây dựng những trường đại học đẳng cấp quốc tế. Từ năm 1992, đã có hơn 200 trường
đại học chuyên ngành được sáp nhập lại thành các trường đại học tổng hợp và đa ngành.
Một nỗ lực đáng chú ý của Trung Quốc là việc tiến
hành xếp hạng quốc gia và quốc tế cho các trường đại học nhằm xác định khoảng cách
giữa các trường đại học Trung Quốc và các trường
đại học đẳng cấp quốc tế. Tìm ra những nhân tố tạo nên đẳng cấp quốc tế cho một trường đại học. Viện Nghiên cứu Giáo dục Đại học
của Đại học Giao thông Thượng Hải đã tiến hành thu thập dữ liệu của 500 trường đại
học trên toàn thế giới theo những tiêu chí xác định, có thể xác minh được, và tiến
hành xếp hạng. Thông thường, một số tiêu chí được tính đến là: số bài nghiên cứu của cán bộ trong trường đăng trên tạp chí danh tiếng thế giới; số lượng
các khoa, số sinh viên theo học, số khoa quốc tế; số sinh viên quốc tế theo học tại trường....
2. Thu
hút nhiều sinh viên nước ngoài theo học ở các trường đại học Trung Quốc
Có một số thuận lợi để Trung Quốc thu hút nhiều sinh viên nước ngoài
theo học ở các trường đại học của nước này, đó là:
Thứ nhất, Trung Quốc có một số lượng lớn cán bộ, giảng
viên các trường đại học đã từng được đào tạo ở nước ngoài. Theo công bố, trong 25 năm
(1978-2003), Trung Quốc có khoảng 680.000 sinh viên đi học ở nước ngoài, và khoảng 1/3 số sinh viên đi du học trở về nước mỗi
năm. Nhiều người trong số này đã trở thành cán bộ giảng dạy, hơn thế còn là cán
bộ chủ chốt trong các trường đại học Trung Quốc. Số này có ảnh hưởng trực tiếp
và rất tích cực đến giáo dục đại học ở Trung Quốc. Đã có một thống kê đưa ra là khoảng một nửa số hiệu trưởng và hiệu phó
các trường đại học ở Trung Quốc đã từng đi nghiên cứu hoặc học tập ở nước ngoài. Những người
này không những làm tăng ảnh hưởng của giáo dục phương Tây ở Trung Quốc mà còn tạo ra nhiều mối
quan hệ làm thuận lợi hơn các hoạt động giao lưu hợp tác trong giảng dạy và thu hút sinh
viên nước ngoài đến các trường đại học của Trung Quốc học tập.
Thứ hai, nhu cầu buôn bán, kinh doanh làm ăn giữa Trung Quốc với nước
ngoài ngày càng lớn, cho nên số người đến Trung Quốc học kiến thức và học tiếng Trung Quốc
ngày càng nhiều. Điều này được thấy ở hai khía cạnh sau đây. Một là,,
số công ty nước ngoài đến Trung Quốc đầu tư ngày một lớn khiến cho nhu cầu sinh viên nước
ngoài đến Trung Quốc học nhiều hơn. Người nước ngoài đến học đại học ở Trung Quốc sau đó làm việc ngay cho chính các công ty nước họ đang kinh doanh ở Trung Quốc.
Hai là, chủ trương mở cửa, tăng cường
các hoạt động buôn bán ở các khu biên giới giữa Trung Quốc với các nước láng giềng mở rộng
khiến nhiều doanh nhân nước ngoài - và con em của họ - muốn đến Trung Quốc học tiếng Hán
vì họ hiểu rằng muốn làm ăn lâu dài với Trung Quốc thì không thể không biết
tiếng Trung Quốc.
Theo tính toán, số sinh viên ngoại quốc theo học
ở Trung Quốc tăng từ hơn 43 ngàn năm 1998 lên hơn 52 ngàn năm 2000 và đạt khoảng 120 ngàn năm
2007. Những nước có nhiều sinh viên học ở Trung Quốc là: Hàn Quốc, Nhật bản, Mỹ,
Việt Nam, Indonêsia. Năm 2003, trong tổng số 77.715 sinh viên nước ngoài theo học
ở Trung Quốc thì có đến 35.353 sinh viên Hàn Quốc
(chiếm 45,5%); có 12.765 sinh viên Nhật bản (16,4%); có 3.693 sinh viên Mỹ;
3487 sinh viên Việt Nam và 2.563 sinh viên đến từ Inđonêsia.
Trung Quốc đã có nhiều chương trình tăng cường trao đổi sinh viên quốc tế, điển hình là hợp tác trao đổi sinh viên giữa Trung Quốc
và Mỹ. Trước năm 1978, hầu như chưa có sinh viên Trung Quốc sang học ở Mỹ. Nhưng
từ năm học 1988-1989, lần đầu tiên số sinh viên Trung Quốc vượt số sinh viên
Đài Loan sang học ở Mỹ. Năm 1998-1999, điều này lại diễn ra với trường hợp Nhật Bản. Theo
số liệu thống kê chính thức, năm 1994-1995, mới chỉ có 39.403 sinh viên Trung Quốc
sang học ở Mỹ. Đến năm 2003-2004, con số đã tăng lên đến 64.757. Trong khi đó, cùng thời gian này, số sinh viên Mỹ đến Trung Quốc học tập tăng
từ 1257 lên 3911 sinh viên (5.)
Hiện có khoảng 450 trường đại học ở Trung Quốc tiếp nhận sinh viên nước ngoài
theo học. Phần lớn tập trung ở một số trường ở Bắc Kinh và Thượng Hải(6).
Đó là các trường: Đại học Văn hoá và Ngôn ngữ Bắc Kinh, Đại học Phúc Đán, Đại học Bắc
Kinh, Đại học Thanh Hoa, Đại học Giao thông Thượng
Hải, Đại học Bắc Kinh. Tính đến năm 2003, Đại học Văn hoá và Ngôn ngữ
Bắc Kinh tiếp nhận 7109 sinh viên và học giả nước ngoài. Con số của trường Đại học Phúc Đán là 3085;
của trường Đại học Bắc Kinh là 2682, của Đại học Thanh
Hoa là 2502.
3. Cải cách khuôn mẫu đào tạo sinh viên và quản
lý giảng dạy
Để trở thành một trường đại
học có đẳng cấp quốc tế, phải có uy tín và uy tín không chỉ về
giảng dạy lý thuyết, mà phải có thực tế để nâng cao chất lượng sinh viên tốt nghiệp. Nhiều
trường đại học nhấn mạnh đến gắn lý thuyết với thực tiễn. Một số trường đại học lớn đang từng bước thực hiện loại
hình giảng dạy tư vấn (advisory teaching), ở đó chuyên gia tư vấn thuyết trình những chỉ dẫn khoa
học cho sinh viên, còn sinh viên tiếp thu và học cách truyền cảm hứng. Giảng viên
chuẩn bị bài giảng dưới hình thức thảo luận và gợi mở vấn đề cho người học suy nghĩ, từ đó khơi dậy sáng kiến và
lòng nhiệt tình của sinh viên.
Đáng chú ý là có một số biện pháp đưa ra nhằm cải thiện chất
lượng sinh viên tốt nghiệp. Đó là việc trợ cấp cho những nghiên cứu sinh xuất
sắc xuất bản luận án tiến sỹ có chất lượng và cải thiện các tiêu chuẩn về hệ thống
thông tin và đánh giá chất lượng để đảm bảo độ tin cậy trong đánh giá tốt nghiệp để cấp bằng cho các cấp như tiến sỹ, thạc sỹ và đại học. Trung Quốc đưa ra các chuyên ngành mới,
mở các khóa học mới, với cách thức giảng dạy mới là các phần cấu thành của cách
thức quản lý giảng dạy hiện nay. Thêm vào đó, Bộ Giáo dục Trung Quốc cũng đã đưa ra một số yếu tố khác để nâng cao chất lượng giảng dạy như: đổi mới cập nhật sách giáo
khoa cũng như tư liệu giảng dạy các khóa học, đa dạng hoá cách giảng dạy, sử dụng các cách giảng
dạy hiện đại trên cơ sở tiếp xúc với sinh viên, gợi mở cho họ đưa ra những ý tưởng mới kết hợp với tư vấn giảng
dạy trong đó giảng viên, sinh viên và các nhà quản lý kỳ cựu cùng chịu trách nhiệm và tham
gia nâng cao chất lượng sinh viên tốt nghiệp.
Sau đây là một ví dụ về các khóa học mới ở Trung Quốc.
Đầu năm 2005, tại Trường Cao đẳng Phát triển và Nhân văn (COHD), Đại học Nông nghiệp Trung
Quốc (CAU) ở Bắc Kinh đã tổ chức một khoá học sau đại học đầu tiên về “Quản lý tài nguyên
thiên nhiên cộng đồng”. Sau nhiều tháng chuẩn bị, một nhóm các giảng viên, các nhà nghiên cứu và
sinh viên trường Cao đẳng Phát triển và Nhân văn bắt đầu khoá học. Bên cạnh đó, một nhóm gồm 24 thạc
sỹ và nghiên cứu sinh tham gia vào khoá học này. Có 10 giảng viên và nghiên cứu
viên có chuyên môn về khoa học tự nhiên và xã hội từ nhiều cơ quan nghiên cứu và
đào tạo cũng tham gia vào khoá học mới mẻ, tiên phong này. Ngôn ngữ sử dụng là
cả tiếng mẹ đẻ và tiếng Anh. Khoá học sử dụng nhiều công cụ nghiên cứu và giảng
dạy, trong đó có phân tích trường hợp (case study), có so sánh, có một nhóm viết đề xuất, nhóm chuyên phản
biện, nhóm viết báo cáo nghiên cứu thực nghiệm có hình ảnh minh hoạ, trong đó nhiều sinh viên trực tiếp
tiếp xúc thực tế, có phỏng vấn cá nhân và phỏng vấn cả nhóm, có vẽ sơ đồ nơi có tài nguyên, cho
các thành viên trong nhóm quan sát, thảo luận nhóm, chụp ảnh và làm băng video,
sau đó đánh giá kết quả.
Dựa trên kết quả của khoá học ở trường Cao đẳng Phát triển và Nhân văn,
năm 2006, một khoá học tương tự cũng được mở trường Đại học Cát Lâm, Trường Xuân. Sau đó nhiều trường đại học ở Trung Quốc cũng
nhân rộng và phổ biến mô hình này ra toàn quốc. Thậm chí mô hình này sau đó còn được biến đổi, cải biến cho thích ứng
với tình hình, điều kiện và những yêu cầu, đòi hỏi tại nhiều nơi khác ở Trung Quốc.
4. Đánh giá xếp hạng
các trường, đẩy nhanh quá trình xây dựng các trường
đại học đẳng cấp quốc tế
Từ nửa cuối những năm 1990, việc xếp
hạng các trường đại học đã trở thành phổ biến ở Trung Quốc. Kết quả xếp
hạng được coi là một nguồn thông tin quan trọng có sức hấp dẫn đối với sinh viên
trong nước và phụ huynh cũng như đối với sinh viên quốc tế đang tìm đến học tập ở một trường đại học của Trung Quốc. Các trường đều muốn đứng ở hạng cao
để tạo ra uy tín, thu hút được nhiều hơn
sinh viên theo học, do vậy, các cán bộ trong mỗi trường, từ giáo viên đến lãnh đạo đều cỗ gắng hết
sức để nâng hạng của trường mình năm sau
cao hơn năm trước. Đây cũng là một cuộc ganh đua làm nâng cao
chất lượng đào tạo của mỗi trường.
Năm 1998 tại lễ kỷ niệm 100 năm thành lập Đại học
Bắc Kinh, Chủ tịch nước Trung Quốc tuyên bố Trung Quốc cần có những trường đẳng
cấp quốc tế, ngay sau đó Dự án 985 ra đời nhằm thực hiện chủ trương này. Dự án 985 cung cấp cho Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa,
hai trường trọng điểm hàng đầu của Trung Quốc một ngân sách trọn gói trong ba năm
là 1,8 tỷ nhân dân tệ (234 triệu USD) cho mỗi trường như một khoản tài trợ đặc biệt
nhằm xây dựng đại học đẳng cấp quốc tế.
Năm 2005, Trung Quốc thành lập
Dự án 111. Dự án 111 là dự án do Bộ Giáo dục và Bộ Ngoại giao Trung Quốc cùng tài
trợ, dự án kéo dài trong 5 năm, bắt đầu từ năm
2006 với khoản kinh phí bỏ ra lúc đầu là 600 triệu nhân dân tệ, dành cho
100 trường đại học của Trung
Quốc thu hút 1000 giảng viên nước ngoài vào giảng dạy
ở Trung Quốc ở 100 lãnh vực nghiên cứu trong
vòng vài tuần đến tối đa 6 tháng
Trong 5 năm (2000-2005), số lượng các công trình
khoa học công bố của các trường đại học Trung Quốc đã tăng gấp đôi. Riêng năm
2003 Đại học Thanh Hoa có khoảng 2700, bài báo khoa học liệt kê trong danh sách
SCI (các công trình khoa học nổi tiếng). Nhiều trường đại học nghiên cứu hàng đầu
của Trung Quốc đã coi trọng chất lượng của các công trình khoa học công bố bằng
cách khen thưởng các bài báo có tỷ lệ trích dẫn cao hoặc đăng tải trên các tạp chí
chuyên môn danh tiếng.
Mặt khác, đến năm 2005, ở nhiều trường đại học lớn, số giảng viên
có bằng tiến sỹ đã lên đến trên dưới 50%, một số trường đưa ra mục tiêu vào năm 2010 sẽ đưa tỷ lệ này lên 75%. ở Đại học Bắc Kinh có khoảng
40% cán bộ giảng dạy được đào tạo ở nước ngoài mà chủ yếu là đào tạo ở Hoa Kỳ.
Năm 2004, theo
xếp hạng của THES - QS World University Rankings Quacquarelli Symonds, xếp hạng dựa theo 6 tiêu
chí, với những tương ứng như sau:
1.
Điểm về bài đăng trên tạp chí danh tiếng: 40%.
2.
Điểm về số khoa, số vinh viên theo học: 20%
3.
Điểm về sự nổi tiếng của các khoa: 20%
4.
Điểm về cách tuyển dụng cán bộ, sinh viên : 10%
5.
Điểm về số khoa quốc tế: 5%
6.
Điểm về số sinh viên quốc tế: 5%
Theo đó, Trung Quốc có 3 trường lọt vào danh sách 50 trường
đại học uy tín nhất thế giới về khoa học tự nhiên, đó là :
1. Đại học Bắc Kinh xếp thứ 15, với 67,5 điểm/ 100 điểm
2. Đại học Thanh Hoa xếp thứ 34 với 48 điểm / 100
3. Đại học khoa học và kỹ thuật Trung Quốc xếp
thứ 40 với 44,6 điểm.
Tuy nhiên, năm 2009, cũng theo xếp hạng của Times
Higher Education-QS World University Rankings thì Đại học Thanh Hoa lại đứng thứ
49 trong số 200 trường. Năm 2005, trong bảng
xếp hạng của Đại học Giao thông
Thượng Hải (SJTU) Trung Quốc chưa có trường
nào có tên trong danh sách 100 trường đại học hàng đầu thế giới. Nhưng có 8 trường đại học Trung Quốc có tên trong
danh sách 500 trường hàng đầu thế giới với thứ bậc từ 151 đến 200. Năm 2008, cũng với các tiêu chí xếp hạng tương tự của Đại học
Giao thông Thượng Hải, chưa có một đại học nào của Trung Quốc có tên trong 100 trường đại học hàng đầu thế giới. Nhưng ở thứ hạng thấp hơn
100, có 5 trường có tên trong danh sách là: Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa,
Đại học Nam Kinh, Đại học Giao thông Thượng Hải và Đại học Chiết Giang.
Các viện quốc tế, hay các tạp chí nổi tiếng thế
giới thường căn cứ vào một số tiêu chí để xếp hạng các trường đại học nổi tiếng thế giới như: số sinh viên theo
học, số các sản phẩm, công trình khoa học được quốc tế công bố rộng rãi, số sinh viên quốc tế
theo học, số khoa/ chuyên ngành học mang tính quốc tế mức chi tiêu cho hoạt động của thư viện... tất cả
các nhân tố này tạo ra uy tín quốc tế của một trường đại học. Theo xếp hạng của Tạp chí “The Times Higher”
số ra 5.11.2004 thì trong danh sách 200 trường đại học đứng đầu thế giới,
Trung Quốc (không kể các trường của Hồng Kông) có 5 trường là:
1.
Đại học Bắc
Kinh, đứng thứ 17. Trong đó xét theo tiêu chí điểm của tạp chí FEER thì đạt 322/1000 điểm (Đại học Harvard đứng số 1, đạt 643 điểm). Xét theo tiêu chí điểm về các khoa quốc tế thì đạt 9/100. Xét theo tiêu chí điểm sinh viên quốc tế đạt 11/100. Điểm tổng cộng đạt 391,8/1000.
2.
Đại học Thanh Hoa, đứng thứ 62. Trong đó xét theo tiêu chí điểm của tạp chí FEER thì đạt 140/ 1000 điểm. Xét theo tiêu chí điểm về các khoa quốc
tế thì đạt 9/100. Xét theo tiêu chí điểm sinh viên quốc
tế đạt 7/100. Điểm tổng cộng đạt 188,9/1000.
3.
Đại học Khoa học kỹ thuật Trung Quốc đứng thứ 154. Trong đó xét theo tiêu chí điểm của tạp chí FEER đạt 85/ 1000 điểm. Xét theo tiêu
chí điểm về các khoa quốc tế thì đạt 5/100. Xét theo
tiêu chí điểm sinh viên quốc tế đạt 1/100. Điểm tổng cộng đạt 125,2/1000.
4.
Đại học Nam Kinh ở Tỉnh Giang Tô xếp thứ 192 với 106,3 điểm. Trong đó xét theo tiêu chí điểm của tạp chí FEER đạt 73/ 1000 điểm. Xét theo tiêu chí điểm về các khoa quốc
tế thì đạt 4/100. Xét theo tiêu chí điểm sinh viên quốc
tế đạt 2/100.
5.
Đại học Phúc Đán xếp thứ 196 với 104,5 điểm. Trong đó xét theo tiêu chí điểm của tạp chí FEER đạt 61/ 1000 điểm. Xét theo tiêu chí điểm về các khoa quốc
tế thì đạt 8/100. Xét theo tiêu chí điểm sinh viên quốc
tế đạt 13/100.
Như vậy với nhiều nỗ lực, chỉ ngay sau 4-5 năm đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc đã đưa nhiều trường đại học của họ vào danh sách những trường đại học có đẳng cấp quốc tế, về đích sớm hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra. Trong khoảng 10 năm nữa, chắc chắc nhiều trường đại học Trung Quốc sẽ có được thứ hạng cao hơn trong số những trường đại học có đẳng cấp quốc tế.
Kết luận
Nước ta
đã gia nhập WTO được hơn 3 năm, nền kinh tế có nhiều chuyển biến
rất mạnh đòi hỏi giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học phải có những thay đổi cơ bản để đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực cho đất nước. Trong quá
trình chuyển sang phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đổi mới mô hình đào tạo đại học là rất cần thiết, là bước quan trọng để xây dựng các trường đại học đẳng cấp quốc tế. Để làm được điều này, điều quan trọng hàng đầu là quyết tâm hết
sức lớn lao của Nhà nước, quyết tâm này được thể hiện ở các chủ trương đúng đắn, mạnh bạo cũng như ở các quyết
định đầu tư có trọng điểm. Bên cạnh đó, để làm được nhiệm vụ lớn lao này, bản thân các trường đại học cũng phải tìm kiếm những nguồn tài chính khác, không hoàn toàn thụ động phụ thuộc vào nguồn đầu tư của Chính phủ cho ngân quỹ hoạt động hàng năm của mình. Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy đầu tư ban đầu của Chính phủ rất quan trọng, từ chỗ dùng tiền để “mua”, để “gọi” các chuyên gia giỏi gốc Hoa và người nước ngoài về giảng dạy
đến chỗ khiến các trường phải tự đào tạo chuyên gia giỏi cho chính mình. Muốn vậy, các trường
cần đầu tư mạnh vào xây dựng các phòng thí nghiệm và trang thiết bị phục vụ
nghiên cứu. Bên cạnh đó, điều quan
trọng là cần tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các trường đại học để tự họ phải vận động, ganh đua và vươn lên. Hiệu quả thu được khá rõ trong thu hút đầu tư nước ngoài do từ nhiều năm nay, chúng ta đã xếp hạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Trong xây dựng các
trường đại học đẳng cấp quốc tế, Nhà nước cần
xúc tiến việc xếp hạng các trường đại học, bao gồm cả xếp hạng quốc gia và bước đầu xếp hạng khu vực dựa trên những tiêu chí nhất địnnh. Chúng ta đều tin tưởng và hy vọng rằng nền giáo dục đại học nước nhà sẽ có những đổi mới thận trọng nhưng mạnh mẽ và chắc chắn khi chúng ta
bước sang thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI.
PGS. TS. Phạm Thái Quốc
Viện Kinh tế và Chính trị thế giới