Ngày
31-5-2012, tại Viện Nghiên cứu Quan hệ quốc tế, Đại học Vân Nam-Trung Quốc,
nghiên cứu sinh Phạm Hồng Yến - Cán bộ viện Nghiên cứu Trung Quốc đã bảo vệ luận
án tiến sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế, với đề tài: “Nghiên cứu Việt Nam tham gia hợp
tác Tiểu vùng sông Mêkông mở rộng (GMS)”, do Giáo sư Liu Zhi (Lưu Trĩ)
hướng dẫn.
Luận án đi sâu phân tích động cơ Việt Nam tham gia hợp
tác GMS; quá trình tham gia hợp tác GMS, chính sách chiến lược của Việt Nam đối
với hợp tác GMS; làm nổi bật những thành tựu đạt được qua 20 năm hợp tác GMS và
những tồn tại; đồng thời nêu kiến nghị chính sách nhằm tăng cường hiệu quả tham
gia hợp tác GMS của Việt Nam. Luận án cho rằng, Việt Nam tham gia hợp tác GMS nhằm thực
hiện và bảo vệ lợi ích quốc gia. Do đó, từ khi cơ chế hợp tác GMS ra đời năm
1992, Việt Nam
đã tích cực tham gia mọi chương trình hợp tác trong khuôn khổ GMS. Đến nay, Việt
Nam đã tham gia vào tất cả các lĩnh vực hợp tác, trong đó, hợp tác cơ sở hạ tầng
giao thông và hợp tác thương mại đạt kết quả nổi bật nhất, đặc biệt, hành lang
kinh tế Đông-Tây tiến triển nhanh nhất, mang lại hiệu quả rõ rệt nhất trong số
các hành lang kinh tế Việt Nam tham gia.
Luận án khẳng định, tham gia hợp tác GMS đem lại nhiều
lợi ích đối với Việt Nam.
Về kinh tế, hợp tác GMS đã hình thành
mạng lưới cơ sở hạ tầng giao thông hiện đại và thuận lợi, nối liền các tỉnh
thành trong nước với các nước Tiểu vùng, thúc đẩy trao đổi thương mại giữa Việt
Nam với các nước GMS, tạo động lực phát triển kinh tế và cải thiện đời sống xã
hội vùng biên, vùng sâu vùng xa của Việt Nam, giúp thực hiện mục tiêu Thiên
niên kỷ thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền. Về an ninh, tham gia hợp tác GMS tạo môi trường xung quanh hòa
bình, ổn định, có lợi cho Việt Nam giữ ổn định vùng biên, bảo đảm an ninh quốc
gia. Về ngoại giao, hợp tác GMS củng
cố và tăng cường quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng trong khu vực. Tuy
nhiên, Việt Nam tham gia hợp tác GMS vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả như mong
đợi, đó là do những nguyên nhân chính sau: (1) Việt Nam chưa hoạch định khung
chiến lược tổng thể cấp quốc gia về hợp tác GMS; (2) Cơ chế và thể chế hợp tác
chưa hoàn thiện; (3) Hành lang giao thông chưa trở thành hành lang kinh tế; (4)
Nguồn vốn và nguồn nhân lực thiếu trầm trọng; (5) Lĩnh vực tư nhân tham gia còn
hạn chế…Luận án đưa ra một số kiến nghị chính sách, cụ thể gồm: (1) Chế định
chiến lược, chính sách quốc gia về hợp tác GMS, tăng cường sự phối hợp nhịp
nhàng, hiệu quả giữa các cơ quan, ban ngành, tổ chức và doanh nghiệp liên quan;
(2) Đẩy nhanh việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng trên các hành lang kinh tế; (3) Tăng
cường đầu tư cải thiện môi trường mềm; (4) Tăng cường huy động và phân bổ nguồn
vốn một cách hợp lý, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực; (5) Khuyến khích doanh
nghiệp tư nhân thâm nhập thị trường GMS.
Về
bố cục, ngoài phần mở đầu và
kết luận, luận án gồm 5 chương: Chương I: Cơ sở lý luận hợp tác Tiểu vùng;
Chương II: Bối cảnh và tiến trình Việt Nam tham gia hợp tác GMS; Chương III:
Các lĩnh vực hợp tác GMS Việt Nam tham gia và sự tiến triển; Chương IV: Thành tựu
và hạn chế của Việt Nam trong hợp tác GMS; Chương V: Triển vọng Việt Nam tham
gia hợp tác GMS.
Luận án được Hội đồng đánh giá cao về ý nghĩa khoa học
và thực tiễn, tư duy rõ ràng, mạch lạc, cách trình bày khoa học, có hệ thống. Hội
đồng chấm luận án trường Đại học Vân Nam-Trung Quốc đã nhất trí đề nghị Bộ Giáo
dục Trung Quốc cấp bằng học vị Tiến sĩ Quan hệ quốc tế cho nghiên cứu sinh Phạm
Hồng Yến.
Tuệ
Lâm