Ngày 02/5/2014, giàn khoan Hải Dương
981 của Trung Quốc được hạ đặt trái phép tại tọa độ 15029’58’’ vĩ
Bắc - 111012’06’’ kinh Đông, phía Nam đảo Tri Tôn, sâu vào trong
thềm lục địa của Việt Nam 80 hải lý, cách đảo Lý Sơn 119 hải lý, cách bờ biển
Việt Nam 130 hải lý. Trong thời gian qua, lực lượng Cảnh sát biển (CSB) và Kiểm
ngư (KN) của Việt Nam đã kiên trì tuyên truyền vận động Trung Quốc chấm dứt
hành vi vi phạm và rời khỏi vùng biển của Việt Nam. Đáp lại thiện chí này của
Việt Nam, Trung Quốc không chỉ cố tình
tiếp tục vi phạm, mà còn tiến hành đâm va, phun vòi rồng, mở âm thanh công suất
lớn và rọi đèn pha làm hư hỏng phương tiện và gây thương tích cho các lực lượng
thực thi pháp luật của Việt Nam. Trước những hành vi vi phạm luật pháp quốc tế
của Trung Quốc, ngày 21/5, khi trả lời phỏng vấn của các phóng viên quốc tế,
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã trả lời rằng Việt
Nam đang cân nhắc các phương án để bảo vệ mình, kể cả phương án đấu tranh pháp
lý, theo luật pháp quốc tế.
Đấu tranh pháp lý cũng là đề xuất của một số
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước trong thời gian qua. Để tìm hiểu về các lựa
chọn đấu tranh pháp lý của Việt Nam, bài viết trước hết xin phân tích về các
vấn đề pháp lý liên quan đến vụ việc hạ đặt giàn khoan. Sau đó, bài viết sẽ
phân tích các lựa chọn về biện pháp pháp lý qua khả năng sử dụng các cơ chế tài
phán khác nhau để bảo vệ quyền lợi cho Việt Nam.
1. Các vấn đề pháp lý liên quan đến vụ việc
Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan 981
Thứ nhất là chủ quyền của Việt Nam đối với
Hoàng Sa. Việt Nam có đủ các bằng chứng
pháp lý và lịch sử để khẳng định chủ quyền của mình với Hoàng Sa. Mặc dù
thiếu các bằng chứng pháp lý, Trung Quốc cũng nhận có họ có chủ quyền không thể
tranh cãi với Hoàng Sa.
(*) Quan điểm trong bài viết là của cá nhân
Từ góc độ pháp luật quốc tế, khi yêu
sách của một bên về một vấn đề thực tiễn, pháp lý, hay chính sách vấp phải sự
từ chối hay phủ nhận từ bên kia hoặc cả hai bên đưa ra những yêu sách trái
ngược nhau thì sẽ tồn tại một tranh chấp. Như vậy, tồn tại tranh chấp cần giải
quyết để khẳng định chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa.
Thứ hai, là việc giải thích và áp dụng các
quy định của Công ước Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982 về quyền chủ quyền
và quyền tài phán của Việt Nam, một quốc gia ven biển, với vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa và nghĩa vụ của Trung Quốc trong việc tuân thủ các quyền của
Việt Nam trong vùng biển này. Việc hạ đặt giàn khoan trái phép của Trung Quốc
đã xâm phạm vào quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trong vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Thứ ba là việc giải thích quy chế đảo để
xác định khả năng các vùng biển được tạo ra từ các đảo theo Công ước Luật biển
1982. Mặc dù Việt Nam có các bằng chứng pháp lý khẳng định chủ quyền của mình
đối với toàn bộ Hoàng Sa, Trung Quốc vẫn ngang nhiên tuyên bố rằng địa điểm hạ
đặt giàn khoan thuộc vùng biển của đảo Trung Kiến (tên Trung Quốc đặt trái phép
cho đảo Tri Tôn của Việt Nam) của Trung Quốc. Lập luận này của Trung Quốc không
chỉ vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa mà còn tạo ra vấn đề pháp
lý về việc xác định vùng biển của các đảo ở Hoàng Sa.
Thứ tư là việc bảo đảm quyền tự do hàng
hải, an toàn an ninh hàng hải tại Biển Đông. Trong vụ việc hạ đặt giàn khoan
trái phép, Trung Quốc đã đơn phương yêu cầu tàu thuyền không qua lại trong phạm
vi 3 hải lý và cố tình tiến hành đâm va, phun vòi rồng vào tàu cảnh sát biển và
tàu kiểm ngư của Việt Nam. Hành động này vi phạm quyền tự do hàng hải mà Công
ước Luật biển 1982 quy định cho tàu thuyền của tất cả các quốc gia, đe dọa đến
an ninh và an toàn hàng hải.
Thứ năm là việc thực hiện nguyên tắc hòa
bình để giải quyết tranh chấp. Trong vụ việc
hạ đặt giàn khoan trái phép, Trung Quốc đã đơn phương tiến hành các hành vi
khiêu khích, triển khai tàu hải quân, máy bay quân sự để đe dọa sử dụng vũ lực
với Việt Nam. Hành động này của Trung Quốc vi phạm nghĩa vụ giải quyết hòa bình
tranh chấp quốc tế.
2. Các lựa chọn về biện pháp pháp lý
Nguyên tắc
hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế là một nghĩa vụ được quy định rõ tại
Hiến chương Liên hợp quốc. Theo đó, các quốc gia có nghĩa vụ lựa chọn các biện
pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp. Hiến chương của Liên hợp quốc gợi ý các
biện pháp là: Đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án và
giải quyết thông qua các tổ chức quốc tế. Trong các biện pháp này, giải quyết
tranh chấp bằng tòa án và trọng tài được coi là các biện pháp pháp lý. Trong
các tòa án và trọng tài quốc tế hiện nay có Tòa Công lý quốc tế, Tòa án luật
biển, Tòa trọng tài thường trực và các trọng tài vụ việc bao gồm cả Tòa được
thành lập theo Phụ lục VII và Phụ lục VIII của Công ước Luật biển 1982.
Tòa Công lý quốc tế
(ICJ) là tòa án được thành lập năm 1945 trong khuôn khổ của Liên hợp quốc có trách
nhiệm giải quyết các tranh chấp pháp lý trong mọi lĩnh vực của quan hệ quốc tế
giữa các quốc gia. Như vậy về nguyên tắc, Tòa Công lý quốc tế sẽ có thẩm quyền
giải quyết cả năm vấn đề pháp lý liên quan đến việc Trung Quốc hạ đặt trái phép
giàn khoan Hải dương 981. Tuy nhiên, về thủ tục Tòa Công lý quốc tế chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nếu tất cả
các bên trong tranh chấp chấp nhận đưa vụ việc ra giải quyết trước Tòa.
Hiện nay, Trung Quốc luôn ngang ngược khẳng định có chủ quyền không thể tranh cãi
với Hoàng Sa và từ chối các đề nghị đàm phán với Việt Nam. Trong vụ việc hạ đặt
giàn khoan này, ít khả năng Trung Quốc chấp nhận đàm phán hay đưa ra giải quyết
tại Tòa Công lý quốc tế. Thiếu sự chấp
thuận của Trung Quốc, cho dù Việt Nam khởi kiện, Tòa sẽ kết luận không có thẩm
quyền để giải quyết vụ việc.
Tòa luật biển quốc tế
(ITLOS) được thành lập trong khuôn khổ của Công ước Luật biển 1982 có trách
nhiệm giải quyết các tranh chấp có liên quan đến việc giải thích và áp dụng
Công ước Luật biển 1982. Như vậy, về nguyên tắc Tòa luật biển quốc tế cũng có
khả năng giải quyết hầu hết các vấn đề pháp lý trong vụ việc hạ đặt giàn khoan
trái phép của Trung Quốc. Tuy nhiên, tương tự như Tòa Công lý quốc tế, thẩm quyền của Tòa được thiết lập dựa trên
sự chấp thuận của các bên trong tranh chấp. Do vậy, thiếu sự chấp thuận của
Trung Quốc, Tòa cũng sẽ kết luận không có thẩm quyền để giải quyết vụ việc.
Trọng tài thường trực quốc tế
(PCA) như tên gọi của mình là Trọng tài thường trực, có trụ sở đặt tại Lahay
(Hà Lan). Trọng tài có thẩm quyền xét xử rất rộng, tất cả các tranh chấp pháp
lý và có thể mở rộng đến cả tranh chấp không mang tính pháp lý giữa các quốc
gia, tổ chức quốc tế và cả cá nhân (miễn là một trong hai bên tranh chấp là
quốc gia hoặc tổ chức quốc tế). Như vậy, Trọng tài thường trực quốc tế có khả
năng xét xử tất cả các vấn đề pháp lý trong vụ việc hạ đặt trái phép giàn khoan
của Trung Quốc. Tuy nhiên, cũng tương tự như Tòa Công lý quốc tế, Trọng tài
thường trực quốc tế không có thẩm quyền
cho dù ta khởi kiện bởi thiếu sự chấp thuận của Trung Quốc.
Trọng tài thành lập theo Phụ lục
VIII của Công ước Luật biển 1982. Đây là
trọng tài vụ việc, mang tính tạm thời (ad hoc), được thành lập theo từng vụ
việc riêng lẻ và chấm dứt vụ việc sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ. Trọng tài có
thẩm quyền xét xử các vụ việc liên quan đến nghiên cứu khoa học biển. Vì vậy,
trong vụ việc lần này, thẩm quyền của
Trọng tài hầu như không liên quan và ta khó có thể sử dụng cơ chế này.
Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII
của Công ước Luật biển 1982. Đây cũng là một trọng tài vụ việc nhưng có thẩm
quyền xét xử rộng đối với các tranh chấp liên quan đến giải thích và áp dụng
Công ước Luật biển 1982. Tuy nhiên, phạm vi này bị hạn chế với một số loại
tranh chấp liên quan đến nghiên cứu khoa học biển và đánh cá. Đồng thời, thẩm
quyền của trọng tài cũng có thể bị hạn chế thêm với các tranh chấp về phân định
biển, vịnh lịch sử, danh nghĩa lịch sử, các hoạt động quân sự và tranh chấp do
Hội đồng Bảo an đang xem xét, nếu các bên yêu cầu. Điểm đặc biệt của Trọng tài
này là một bên có thể đơn phương khởi kiện mà không cần sự chấp thuận của bên
kia trong tranh chấp, với điều kiện tuân thủ một số thủ tục sau:
- Đã tiến
hành trao đổi quan điểm trong một khoảng thời gian mà không đạt được kết quả.
- Giữa các
bên trong tranh chấp không có điều ước song phương hoặc đa phương nào có thể
giải quyết tranh chấp bằng một phán quyết có giá trị ràng buộc.
Liên
hệ với vụ việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép 981, Việt Nam đã tiến
hành hơn 20 lần giao thiệp mà không đạt được kết quả. Đây có thể coi như nghĩa
vụ trao đổi quan điểm đã hoàn thành.
Giữa
Việt Nam và Trung Quốc tồn tại hai văn bản có thể được viện dẫn có liên quan
đến như điều ước song phương và đa phương để giải quyết tranh chấp. Thứ nhất là, Hiệp ước thân thiện hữu
nghị giữa các quốc gia ASEAN (TAC). Trong hiệp ước này, có cơ chế để giải quyết
tranh chấp nhưng cần sự chấp thuận của Trung Quốc và không dẫn tới kết quả ràng
buộc. Thứ hai là, Tuyên bố về cách
ứng xử của các bên tại Biển Đông. Văn bản này thực chất không phải là điều ước
quốc tế và cũng không có cơ chế giải quyết tranh chấp dẫn tới kết quả ràng
buộc.
Kết
hợp cả hai điều kiện này, Việt Nam có thể đơn phương khởi kiện Trung Quốc ra Tòa
trọng tài theo Phụ lục VII. Tuy nhiên, Việt Nam có thể khởi kiện vấn đề
gì cần có sự xem xét kỹ lưỡng:
Thứ nhất,
vì Trọng tài theo Phụ lục VII chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên
quan đến giải thích và áp dụng Công ước Luật biển 1982 mà Công ước này chỉ quy
định về việc xác định các vùng biển, quyền và nghĩa vụ của các quốc gia trong
việc khai thác và quản lý biển, mà không quy định về các cơ sở pháp lý để thiết
lập chủ quyền lãnh thổ nên Việt Nam không
thể kiện Trung Quốc về chủ quyền của Hoàng Sa ra trọng tài này.
Thứ hai,
năm 2006 Trung Quốc đã ra tuyên bố loại bỏ các tranh chấp liên quan đến phân
định biển, vịnh lịch sử, danh nghĩa lịch sử, các hoạt động quân sự và tranh
chấp do Hội đồng Bảo an đang xem xét khỏi phạm vi giải quyết tranh chấp của cơ
chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước Luật biển. Theo quy định của
Công ước, tuyên bố này của Trung Quốc có giá trị vì các quốc gia có quyền loại
bỏ như vậy. Do vậy, ta không thể kiện Trung Quốc về các vấn đề nêu trên.
Như
vậy, ta có thể kiện một số vấn đề cụ thể sau: (1) Trung Quốc xâm phạm quyền chủ
quyền, quyền tài phán của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa,
(2) Yêu cầu giải thích quy chế đảo của Hoàng Sa. Nếu Tòa kết luận được các yêu
cầu này của Việt Nam theo hướng Hoàng Sa chỉ có 12 hải lý và Trung Quốc vi phạm
quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam thì sẽ là một thắng lợi giúp
chúng ta bảo vệ được vùng biển, tránh âm mưu hiện thực hóa đường lưỡi bò của
Trung Quốc. Tuy nhiên, cũng có khả năng để xem xét hai hai vấn đề này Tòa trọng
tài không thể đưa ra kết luận cuối cùng vì liên quan đến phân định biển.
Việt
Nam cũng có thể kiện các vấn đề pháp lý còn lại của vụ việc Trung Quốc hạ đặt
giàn khoan trái phép liên quan đến tự do, an ninh, an toàn hàng hải và sự vi
phạm nghĩa vụ hòa bình giải quyết tranh chấp của Trung Quốc. Đây là các vấn đề
không nằm trong tuyên bố loại trừ của Trung Quốc.
Điểm
đáng chú ý là nếu Việt Nam khởi kiện tại Trọng tài theo Phụ lục VII, trong thời
gian Tòa thụ lý vụ kiện Việt Nam có thể yêu cầu Tòa Công lý quốc tế hoặc Tòa án
Luật biển quốc tế ra quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời để buộc Trung
Quốc chấm dứt hành vi gây thiệt hại về phương tiện và thương tích cho lực lượng
thực thi pháp luật của Việt Nam, đồng thời chấm dứt khoan tại địa điểm hạ đặt
trái phép hiện nay cho tới khi có phán quyết cuối cùng của Tòa trọng tài.
Ngoài
ra, nếu Tòa cho rằng không thể đưa ra ý kiến về một số yêu cầu của Việt Nam
liên quan đến phân định biển thì theo quy định của Công ước 1982, Trung Quốc sẽ
phải tham gia hòa giải bắt buộc với Việt Nam để có được một ý kiến khuyến
nghị khách quan của một bên thứ ba về giải quyết tranh chấp.
Ngoài
thủ tục khởi kiện ra Tòa án và trọng tài quốc tế, các học giả còn đưa ra quan
điểm sử dụng Tòa án trong nước hoặc Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Tòa
án trong nước của Việt Nam khó có thể giải quyết vụ việc này
bởi hai lý do. Thứ nhất, giàn khoan
Hải dương 981 thuộc Công ty dầu khí quốc gia Trung Quốc và có thể được miễn trừ
tài phán tại Tòa án quốc gia khác do nguyên tắc miễn trừ tài phán giữa các quốc
gia với nhau được quy định trong luật quốc tế. Thứ hai, tính cưỡng chế của một phán quyết của Tòa án trong nước
trong vụ việc này không cao vì dễ bị coi là không có tính khách quan và không
có công cụ để cưỡng chế thi hành. Tòa Việt Nam cho dù ra phán quyết cũng không
thể tùy tiện thi hành phán quyết với các doanh nghiệp tư nhân của Trung Quốc
đang đầu tư tại Việt Nam do hành vi vi phạm này là trách nhiệm của nhà nước
Trung Quốc.
Hội
đồng Bảo an sẽ dễ dàng bị vô hiệu hóa, không ra
được Nghị quyết lên án hành vi đe dọa hòa bình an ninh quốc tế của Trung Quốc
vì Trung Quốc là một thành viên Thường trực có quyền phủ quyết. Đồng thời, nếu
ta đưa vấn đề ra Hội đồng Bảo an và Trung Quốc kéo dài thời gian vụ việc được
xem xét tại Hội đồng Bảo an thì ta không thể kiện Trung Quốc tại Trọng tài theo
Phụ lục VII vì các vấn đề mà Hội đồng Bảo an đang xem xét sẽ bị loại trừ khỏi
thẩm quyền xét xử của Trọng tài này.
Tóm lại,
qua những phân tích về khả năng sử dụng biện pháp pháp lý, biện pháp khả thi
nhất cho Việt Nam là tiến hành đơn phương
khởi kiện Trung Quốc ra Trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật biển 1982.
Tuy nhiên, ta không thể khởi kiện về chủ quyền đối với Hoàng Sa và vấn đề khởi
kiện phải được lựa chọn khéo léo để tránh các loại tranh chấp đã bị Trung Quốc
loại trừ trong tuyên bố năm 2006. Việc khởi kiện này có thể dẫn tới các phán
quyết và quyết định có tính bắt buộc thi hành với Trung Quốc cho dù nước này có
tham gia vào quá trình tố tụng hay không. Với các vấn đề pháp lý trong vụ hạ
đặt giàn khoan trái phép, phán quyết và quyết định của Tòa trọng tài có khả
năng ngăn chặn và buộc Trung Quốc rút giàn khoan khỏi thềm lục địa và vùng đặc
quyền kinh tế của ta. Phán quyết đó còn có thể gián tiếp bác bỏ đường lưỡi bò
của Trung Quốc. Tuy nhiên, trên thực tế, mặc dù phán quyết có giá trị bắt buộc
thi hành, Trung Quốc vẫn có thể không thi hành do hệ thống luật quốc tế không
có cơ quan cưỡng chế thi hành với Trung Quốc. Trong trường hợp đó, ta có chính nghĩa là pháp luật, dư luận quốc
tế còn uy tín, danh dự của Trung Quốc sẽ bị tổn hại nghiêm trọng và dư luận thế
giới sẽ có cơ sở pháp lý để lên án Trung Quốc, ủng hộ Việt Nam. Với các cơ
chế khác như Tòa công lý quốc tế, Tòa án luật biển quốc tế, Việt Nam có thể đơn
phương khởi kiện nhưng Tòa sẽ kết luận không có thẩm quyền, không thể có được
phán quyết, vì vậy chỉ có giá trị đấu tranh dư luận. Khả năng này cũng không
khả thi do tốn kém và hiệu quả đấu tranh không cao.
Cho
dù lựa chọn biện pháp nào, đấu tranh pháp lý là một trong các công cụ đấu tranh
và cần được cân nhắc cẩn trọng trong tổng thể các công cụ khác để đảm bảo hiệu
quả tối đa cho công cuộc đấu tranh còn lâu dài và phức tạp để bảo vệ chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán tại Biển Đông của chúng ta./.
TS. Nguyễn Thị Lan Anh
Học viện Ngoại giao